3540. Lời khẩn cầu của vợ con lính lê dương từng tham chiến tại Việt Nam

Lời khẩn cầu của vợ con lính lê dương từng tham chiến tại Việt Nam

Đỗ Doãn Hoàng/ Lao động
Chị Xuân với chiếc răng mang sang 
Morocco để xét nghiệm ADN tìm 
gia đình của bố đẻ mình
NQL: Rất hay! Một phóng sự đặc sắc của Đỗ Doãn Hoàng.

Cuộc chiến chống thực dân Pháp của chúng ta đã chính thức kết thúc vào năm 1954. Nhưng, cuộc tìm về quê cha của những đứa con lai da đen, da trắng, da màu sinh ra trên đất Việt thì hơn nửa thế kỷ qua, chưa một ngày thôi đẫm nước mắt.

Nhiều đứa con da đen, da màu, da trắng đã được sinh ra bằng các cuộc hôn nhân chính thức, nhưng bao năm qua họ vẫn tuyệt đường về quê cha, họ bị vứt ra vỉa hè, nhiều người đã đổ đời vào ma túy, tù tội thảm thương. 

Giai đoạn lịch sử “độc nhất vô nhị” đã sản sinh ra những phận người ấy

Sau giải phóng Điện Biên, nhiều hàng binh (lính lê dương) là người gốc châu Âu, châu Phi đã được Chính phủ đưa về lao động tại Nông trường Việt-Phi (Ba Vì, Hà Nội ngày nay). Lúc cao điểm có tới hơn 300 người lao động xã hội chủ nghĩa rất khí thế tại đây. Người Việt, người Morocco, Tunisia, Algieria, Pháp, Italia, Hà Lan, Romania…, nhiều màu da quốc tịch cùng “chung tay xây dựng quê hương mới”. 

Họ trồng mít, dứa, càphê, sản xuất lúa khoai rất vui vầy. Có đội sản xuất, có các khu nhà Mít, nhà Dứa, nhà Khoai với nhiều cặp vợ chồng “hôn nhân xuyên biên giới”. Đàn bà con gái Việt Nam làm vợ các hàng binh Âu, Phi rất nhiều. Việc kết hôn của họ do tổ chức giúp đỡ, họ được chia đất làm ăn, có đăng ký, đẻ con ra có khai sinh đàng hoàng.
Bà Mùi, vợ lính lê dương đang
sống ở Đoan Hùng, Phú Thọ.
 
Sau này, khoảng giữa những năm 60, đế quốc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc, nông trường Việt-Phi đã được di dời lên Yên Bái. Nhờ quá trình chiến đấu, sản xuất tốt, nhiều lính Âu Phi đã được nhà nước ta tặng nhiều phần thưởng cao quý. Lần lượt, nhiều người đã đưa vợ Việt và các đứa con lai về nước. Có nước chấp nhận đưa “hàng binh” về sớm, có nước cho về rất muộn.

Có rất nhiều gia đình, cả bà vợ Việt và đàn con lai không thể “hồi hương” theo cha, bởi vị hàng binh xấu số kia đã chết trước khi có “lệnh” về cố quốc. Có người chết xong vài hôm thì có lệnh được trở về. Người ta bảo rằng: “Người bảo lãnh” đã chết, thử hỏi gia quyến của họ (vợ Việt và con lai) sẽ về châu Âu, về châu Phi để sống với ai?

Gia đình của hàng binh đã bỏ mạng ở miền đất nhiệt đới xa xôi Á châu này, cũng chả mặn mà gì với việc đón “con rơi vợ lạc” của họ, dẫu những “đứa bé đi tìm cha” đã sang tận trời Âu, trời Phi để liên lạc. Dẫu các đại sứ quán đã rất nỗ lực, báo chí, truyền hình bên nước họ đã lên tiếng nhiều lần; dẫu việc tìm tung tích vị lính lê dương với tên tuổi, địa chỉ, phiên hiệu, với ảnh chụp còn nguyên kia không có gì là khó khăn cả…
Chị Xuân và những người bạn 
Morocco gặp trên hành trình tìm cha. 
Thế là, những người làm báo như chúng tôi liên tục nhận được những lá đơn kêu cứu, kiến nghị của vợ hàng binh cùng đàn con, cháu “lai tây” của họ. Chúng tôi khảo sát, riêng ở huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ, đã có khoảng 50 người con lai, hầu hết là Morocco, Italia. Họ vẫn hằng ngày hằng giờ hái chè, nuôi bò, chạy xe ôm, rồi ước ao được “hồi hương”. 

Trên cả miền Bắc, chúng tôi gặp những người da đen nhánh hoặc trắng bóc, “tây hơn cả người tây”, họ xuất hiện ở đâu là tất cả đều ngỡ ngàng thảng thốt. Họ là kết quả của tình yêu hoặc các cuộc hãm hiếp đau lòng do lính lê dương gây ra; nhưng họ chưa bao giờ căm thù bố mình. Họ luôn muốn được biết về cha, thăm quê cha. Nhiều người trong số họ đã bước vào tuổi năm sáu chục, cái khát vọng đời người ấy lại càng da diết, đau đáu hơn bao giờ hết.

Trước khi chết vẫn vươn dậy hỏi “mình sắp được về Morocco chưa anh?”

Cuộc đời của các bà Nguyễn Thị Tuệ, Lê Thị Mùi (hiện đang sống ở Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Phú Thọ) đã ám ảnh tôi. Người ta đã gom đủ các hạng người cặn bã của xã hội, từ trộm cắp, đĩ điếm, kẻ lang thang vườn hoa công viên vào… “lao động cải tạo” ở “trung tâm” đó; nên bà con xung quanh gọi đó là “làng độc”.
Bức ảnh bà đẻ ra bố chị Xuân.

Đầu những năm 1970 của thế kỷ trước, vợ và con của những lính Âu, Phi không được hồi hương cũng được người ta gom cả lại vào “làng độc”. Hai bà Tuệ, bà Mùi gắn bó với “làng độc” đã mấy chục năm, nay họ đều đã ngoài 80 tuổi, cuộc sống kẽo kẹt tủi hổ vô cùng. Xung quanh họ là tiếng gào thét của những người điên trong trung tâm bảo trợ xã hội.


Bà Mùi nguyên là… “gái” trong thời thuộc Pháp. Bà kể, địa chủ từng ép bà ăn phân người, hắn cắt cả tai của bà để trừng trị đứa “con ở” để trâu ăn lúa. Một “ông chủ” khác hãm hiếp cô bé Mùi. Rồi đời bà lưu lạc đủ nghề, từng xây dựng cầu Việt Trì, vào Thanh Hóa làm đường tàu thời xã hội chủ nghĩa. Đến lúc chán nản, về thành phố lê la bệ rạc, nhìn cảnh gái tơ hơ hớ, ai đó xót xa giới thiệu bà “đi mà lấy tây cho gọn”. 

Tại Nông trường Việt-Phi ở Ba Vì, bà đã cưới ông Mohamet Mizit, người Morocco, đẻ được một đàn con trai. Tất cả các con bà đều làm nông nghiệp, trồng chè ở ven “làng độc”. Có anh Mohamet Ali Lê Văn Bình (bà con gọi là “Bình tây”), đã nhiều năm theo đuổi việc kiến nghị các cơ quan chức năng giúp đỡ để được về quê cha. Ông Bình cho biết, mới đây, sau gần 40 năm kêu cầu tha thiết, đã có tin vui, rằng phía Morocco đã công nhận cộng đồng con lai, cháu lai ở Đoan Hùng là “con em Morocco ở Việt Nam”.

Quả vậy, ông Mohamet Mizit cưới bà Mùi được tổ chức linh đình, có đăng ký kết hôn “cả nông trường chứng kiến” hẳn hoi. Ông Bình nhớ lại, ông Mizit đã dạy các con đối nhân xử thế, giúp đỡ người gặp hoạn nạn, dạy có làm thì mới có ăn, lao động là vinh quang. Ông Mizit chết năm 1968, tại Nông trường Việt-Phi trên Yên Bái, sau một cơn bạo bệnh. Mộ ông giờ vẫn lưu lạc ở Việt Nam
Anh Bình và bia mộ của bố mình
- một hàng binh người Morocco.
Viên đá khắc tên ông, dự định đặt làm bia mộ, do gia đình và đồng đội ông Mizit tạo tác, giờ vẫn trang trọng đặt trên bàn thờ nhà ông Bình. Riêng ông Lê Văn Đường, cách đây vài năm, ông mắc bệnh hiểm nghèo và chết. Trước giờ nhắm mắt, nghe tin có thư từ phía cơ quan chức năng Morocco công nhận “công dân” cho anh em mình, Lê Văn Đường vẫn ngóc đầu dậy hỏi Bình “tây”: “Bọn mình sắp được về Morocco chưa anh?”. Ông Bình lắc đầu. 

Em trai ông Bình là Lê Văn Chiến cũng khóc. Ông Bình trăn trở: “Hôm ấy tôi bảo, vẫn chưa được công nhận em ạ. Em tôi khóc, úp mặt vào tường và chết... Giá mà tôi biết nói dối em một câu cho chú ấy đi thanh thản. Chỉ 18 ngày sau, phía Morocco có văn bản công nhận chúng tôi là con em người Morocco sống tại Việt Nam”. Con gái ông Bình giờ làm việc ở Hà Nội, vẫn thường tìm tư liệu về đất nước Morocco, vẫn hằng ao ước được cùng gia đình về thăm miền Bắc Phi ấy. Cô bé cũng thường đi lễ ở nhà thờ Hồi giáo, để nhớ về miền đất, thứ đạo đã sinh ra và nuôi dưỡng ông nội mình…
Tuy nhiên, hành trình về quê cha của họ vẫn còn thăm thẳm lắm.

“Cô tây” đi vặt lông gà thuê, cầm cái răng của mình sang châu Phi tìm cha

Lại nói chuyện bà Nguyễn Thị Tuệ (SN 1938), người đang sống cùng bà Mùi ở “làng độc”. Bà Tuệ là người Từ Liêm, Hà Nội, thuở nhỏ nghèo khó đi làm con ở bế em cho nhà giàu. Vốn xinh xắn, qua môi giới, bà lên nông trường lấy chồng người Morocco tên là Mohamet Ben Sét-xa. Sau này, đẻ được 1 đứa con là Nguyễn Thị Xuân (Mohamet Habiba). Chồng chết, bà lấy thêm 2 ông Tây nữa, đều đẻ con, trai gái đủ cả. Tiếc thay, các ông đều chết ở Việt Nam trước khi hai chính phủ có “lệnh” hồi hương. 

Vì thế nên bà Tuệ và đàn con lưu lạc ở Việt Nam, lam lũ đủ bề. Bản thân bà Tuệ thì sống cô độc trong trung tâm bảo trợ xã hội bằng số tiền trợ cấp ít ỏi. Lại thêm từ thuở cha sinh mẹ đẻ, một bên mắt bà đã gần như hỏng hẳn nên cuộc sống càng muôn phần khổ cực. Con cái lưu lạc các nơi, số tiền trợ cấp hơn 300 nghìn của bà, thậm chí còn phải dành dụm để giúp đỡ con cháu; bản thân bà cụ 85 tuổi chỉ có thể ăn cơm với muối trắng và rau muống mỗi ngày.
Bà Tuệ, vợ lính lê dương đang
sống ở Đoan Hùng, Phú Thọ. 

Các con của bà Tuệ với những cái tên tây bắt đầu bằng dòng chữ “Mohamet” dài dằng dặc, mỗi đứa là con một ông tây “lính lê dương” khác nhau, tất cả đều lưu lạc khắp nơi, nghèo khó đủ bề. Riêng cô con cả Mohamet Habiba Nguyễn Thị Xuân thì sống ở Hà Nội từ nhỏ. Sinh năm 1961, không chịu được cái nhục “con tây” dẫu bố mẹ tử tế, có cưới xin đàng hoàng, nên Xuân sớm bỏ “làng độc” về Hà Nội bế con cho bà dì. 

Lớn lên đi nhặt phế liệu trong thời kỳ Hà Nội còn bị đế quốc Mỹ oanh tạc. Nhặt cả vỏ máy bay Mỹ và xe ôtô bị cháy hỏng đem bán! Sau này, lấy anh chồng là anh H ở phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội. Chẳng may anh này vướng vào tù tội, vợ chồng bỏ nhau.

Một nách nuôi cậu con trai, chị Xuân trải qua đủ thứ nghề lầm lụi, nhếch nhác. Vặt lông gà thuê. Bán bánh mỳ ở sân vận động. Thuê nhà ở gần Trung tâm Chiếu phim Quốc gia (đường Láng Hạ, Hà Nội) để bán bim bim cho trẻ con. Bán nước ven đường. Làm bánh trôi bánh chay. Chỉ trỏ nhà đất. Nhặt nilon ở bãi rác. Có lần, các cán bộ và con cháu từng gắn bó với nông trường Việt-Phi tổ chức gặp mặt, tôi gọi cho chị Xuân rủ đi, chị buồn bã: Mọi người báo tin muộn quá, sáng nay chị đã lấy 30 cái bánh mỳ ra bán ở sân vận động Hàng Đẫy rồi. 

Giờ mà đi dự ở Ba Vì, thì bỏ ế đám bánh mỳ, mai chết đói, lấy tiền đâu mà thuê nhà. Chị Xuân vất vưởng thuê nhà ở khu dân cư nhếch nhác, ô nhiễm đến mức, vừa rồi con trai chị lấy vợ, phải ở nhà vợ trên Thái Nguyên chăm con nhỏ, chị Xuân không dám cho cháu đến nhà trọ của mình, vì sợ sự ô nhiễm của “xóm liều” Hà Nội sẽ làm đứa cháu nội “F2 lai Morocco” ấy bị… nhiễm độc.
Theo chị Xuân, đây là ảnh của bố chị.
Suốt mấy chục năm qua, chị Xuân cùng nhiều người con lai Morocco (và những nước khác) liên tục có đơn thư, liên tục đến đại sứ quán, lên Bộ ngoại giao xin được giúp đỡ “hồi hương”. Ông Bình cũng đã nhận được thư từ phía “quê cha”. Thế là họ càng hy vọng, dẫu ông Bình đã bước vào tuổi 60, thời gian để làm việc lớn kia không còn nhiều nữa, em trai ông Bình thì đã chết trong day dứt. Vừa rồi, chị Xuân Habiba đã vay tiền khắp nơi, cóp nhóp trong nhiều năm, mang theo cả ảnh cha mình cùng thân quyến, đem theo cả chiếc răng gẫy của mình (để xét nghiệm AND nếu cần) rồi bay sang đất nước Bắc Phi Morocco

Chị đã cùng những người anh em mà chị tin là “ruột rà” với bố mình cưỡi lạc đà trên sa mạc, du sơn du thủy, chị đắm mình trong không gian và tình người đầm ấm của “miền đất quê cha”. Các nhà báo ở đó, các trang mạng xã hội ở đó đã sang tận Việt Nam làm phim về cuộc đời Xuân Abiba, họ cũng đăng tên, địa chỉ, số điện thoại của chị để tìm gia đình nhà nội. Chị Xuân lưu giữ đầy đủ từ giấy khai sinh, ảnh, tư liệu về mình và cha mẹ, chị có cả ảnh bà nội mình. Sinh thời, bố chị còn bảo ông đặt tên chị là Habiba trùng với tên bà nội để bày tỏ lòng thương nhớ và tôn kính bà.
Một trang thông tin do các bạn Morocco 
lập ra với mong muốn tìm bố và gia đình cho chị Xuân.

Thời gian cứ trôi, nhiều năm qua, biết chúng tôi tìm hiểu về câu chuyện “lạ lùng” của lịch sử này, không ít gia đình đã chủ động liên lạc, với một lời nhờ cậy đầy nước mắt: Thông qua báo chí, làm ơn thêm một lần nói với cơ quan hữu trách, làm sao để những bà vợ, những đứa con lai vô tội kia được trở về quê hương xứ sở của chồng, của cha họ. Đó là một việc thiêng liêng, một nhu cầu đầy nhân văn của mỗi kiếp người.

Cách đây chưa lâu, báo Lao Động hơn một lần đã phản ánh về gia đình bà Nguyễn Thị Lộc và ông Main Mohamet Ben Sait (người Morocco). Ông bà chết ở Việt Nam. Anh con cả là Nguyễn Văn Tuấn (tức Mohamet Ben Sait Co Co) và 2 người em trai vẫn sống ở xã Sóc Đăng, huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ. Một số người trong số họ đi ở tù vì nghiện và buôn ma túy sau thời gian bị “ẩy” ra khỏi trung tâm bảo trợ xã hội, sau thời gian những đứa con lai ấy nghĩ rằng mình và con cháu đã tuyệt đường tìm về Morocco quê cha. 

Những tưởng còn sót lại anh Tuấn “tại ngoại”, ai dè, khi tôi viết những dòng này, anh Tuấn lại tiếp tục đi ở tù, dù đôi chân anh tàn phế và phải đi bằng hai tay. Trưởng Công an xã Sóc Đăng, khi trả lời phỏng vấn chúng tôi, cũng phải chép miệng tiếc xót cho cuộc đời những người con lai đẹp trai lồng lộng mà phải mò cua bắt tép sống qua ngày từ thời niên thiếu, rồi cùng nhau vướng vào lao lý.
Chị Xuân, anh Bình cùng nhiều người
con lai khác đã viết thư gửi Đức vua Morocco.
Sự việc không dễ, nhất là khi mấy chục năm ròng đã trôi qua, vật đổi sao rời. Nhưng nếu chúng ta đủ vị tha để nghĩ rằng: Ước nguyện được hiểu, thăm, trở về quê cha của họ là chính đáng và thiêng liêng; nếu chúng ta hiểu là lịch sử xoay vần thế nào đi nữa, thì những đứa con lai kia (và con cháu họ) đều không có tội tình gì cả… thì chúng ta sẽ có thêm nỗ lực để tháo gỡ bài toán này.


Khu Nông trường Việt-Phi ở Ba Vì, năm 2009, còn được Đại sứ quán Morocco đứng ra trùng tu, tôn tạo, với tấm biển đá khắc chữ, tri ân những đóng góp của các hàng binh và gia đình họ. Một số hàng binh, họ đến từ đâu, họ chết ra sao, khi nào, hồ sơ chắc chắn còn rất rõ ràng cụ thể. Thậm chí, thông qua báo chí, chúng ta từng biết, nhiều người như ông Bình da đen ở Sơn Tây; bà Mai da trắng ở Bắc Giang,… họ đều sinh ra từ các cuộc hãm hiếp của lính lê dương, tự họ đã tìm được tên đơn vị, phiên hiệu, chức danh, tên tuổi của bố mình, họ đã làm việc với các đại sứ quán, chỉ với mong muốn tìm tung tích để hiểu về cha. 

Cha họ, cũng như mẹ họ, dù thế nào thì họ cũng vẫn thương yêu, kính trọng hết mực. Nếu ông Bình “đen”, bà Mai “tây” còn làm được việc đó để tìm cha, thì cớ gì 50 “con em người Morocco” đang sống ở Đoan Hùng kia không tìm được? Bởi họ là kết quả của các cuộc hôn nhân được tổ chức của Chính phủ Cụ Hồ đứng ra xe duyên, đăng ký, khai sinh, chăm sóc, lao động, trưởng thành cơ mà. Chúng ta sẽ làm gì để những cộng đồng “con cháu tây” đang ngày càng đông đúc kia sẽ không còn phải khẩn cầu, than khóc mỗi lúc muốn tìm về nguồn cội nữa?
Chị Xuân và giọt nước mắt tủi phận.
Tại khu vực nông trường Việt-Phi cũ (Ba Vì, Hà Nội), năm 2009, Đại sứ quán Morocco có trùng tu một chiếc cổng lớn, tôn trọng nguyên hình dáng cũ tuyệt đẹp và nhiều ý nghĩa của nó, với dòng chữ khắc trên đá: “(…) Những hàng binh này đã được đối xử một cách nhân đạo bởi Đảng và quân đội nhân dân Việt Nam. 

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo thành lập Nông trường Việt-Phi để tiếp nhận hơn 300 hàng binh người châu Âu, châu Phi (…). Những người này đã khai hoang, chăn nuôi hàng ngàn bò sữa, trồng lúa, trồng sắn, trồng mía, cung cấp được cho các nhà máy đường Tam Hiệp, Vạn Điểm. Nhiều người trong số họ đã cưới phụ nữ Việt Nam”.



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

5044. Màu đỏ Artek

5485. Vì sao nước Đức hùng mạnh? (Kỳ 1)

6272. Kịch tính vụ kit Việt Á ngày càng cao.