3424. Tô Văn Trường: NÓI LẤY ĐƯỢC HAY NÓI ĐỂ MÀ NÓI
NÓI LẤY ĐƯỢC HAY NÓI ĐỂ MÀ NÓI
Tô Văn Trường
Có thể nói dự án bô xít Tây Nguyên là một trong những dự án gây tranh cãi
nhiều nhất. Nó ra đời, bất chấp nhiều ý kiến phản biện rất khoa học và tâm
huyết, kể cả lời cảnh báo khuyên can của những bậc công thần của đất nước. Rồi
cái kiểu “làm lấy được” ấy đã lập tức gây hậu quả tai hại về kinh tế cũng như
môi trường. Bây giờ thì lại có những ý kiến ngụy biện bảo vệ cho những sai lầm
của dự án theo kiểu “nói lấy được” hay “nói để mà nói”!
Tôi mới đọc bài trả lời phỏng vấn đăng trên báo Một Thế
Giới của tiến sĩ Nguyễn Văn Lạng Chủ tịch Hội Thông tin Khoa học và Công nghệ
Việt Nam, (nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ), thấy có một số điểm cần
nói lại cho rõ để rộng đường công luận.
TS Lạng đánh giá : “Tập
đoàn than khoáng sản TKV đã xây 2 hồ ở Tân Rai với quy mô mỗi hồ khoảng 1 triệu
tấn bùn và mỗi lần đầu tư khoảng trên 300 tỉ đồng. Những hồ này chịu được tất
cả các áp lực, kể cả với động đất khoảng trên 7-8 độ richter, cho nên khả năng
vỡ đập, vỡ hồ là rất khó. Vỡ đập
thì không thể, nhưng tràn bùn thì hoàn toàn có thể, cho nên giải pháp đặt ra là
phải chống tràn bùn bằng cách theo dõi thời tiết và có biện pháp xả bùn đỏ một
cách an toàn để không bị tràn, đảm bảo môi trường và cuộc sống của người dân.
Đây là giai đoạn trước mắt, còn trong vài năm tới, khi
nhà máy luyện bùn đỏ thành thép, thành gang, thành sắt ra đời thì nguy cơ tràn,
vỡ đập bùn đỏ sẽ không còn, vì khi đó bùn đỏ đã trở thành nguyên liệu và Nhà
nước sẽ tiết kiệm được rất lớn chi phí xây hồ”.
Ở đây, không thể nói vỡ đập là không thể vì không có công
trình nào là tuyệt đối an toàn, nhất là trong điều kiện thiết kế và thi công ở
Việt Nam .
Đừng nhầm lẫn giữa việc chọn hệ số an toàn trong thiết kế và đánh giá về quản
lý rủi ro là hai khái niệm về khoa học hoàn toàn khác nhau.
GS-TS Nguyễn Tử Siêm chuyên gia hàng đầu về nông nghiệp
đặt vấn đề về giải pháp “tràn bùn thì xả” xem ra đơn giản đến khó tin. Dựa vào
dự báo thời tiết mà mở van thì xưa nay vẫn làm thế mà bao nhiêu hồ đập đã bị
tràn, bao nhiêu lần đã vỡ, dân ở vùng hạ lưu chạy không kịp. Mà hồ chứa bùn độc
đã tràn thì khác gì bom bẩn, xử lý sao đây khi nó đã thấm sâu vào lòng đất
bazan vốn là loại đất sâu và xốp nhất trên thế giới.
Nếu bùn đỏ thứ nhất còn có kiểm soát, thì bùn đỏ thứ hai
lại không có bất cứ biện pháp xử lý gì, làm sao mà yên tâm? Tỷ lệ sesquioxyt
(hydroxyt sắt + hydroxyt nhôm) trong đất bazan trung bình khoảng 20%. Lấy sắt
nhôm đi thì còn 80% là đất thải, chính là bùn đỏ thứ hai. Cứ cho là nó không
độc hại hóa học, thì khối lượng khổng lồ này được hòa vào nước rửa quặng nằm
trên thế dốc sao lại không thể trở thành lũ bùn.
Cách đây 4 năm, tôi đã viết bài góp ý về “Lỗ hổng trong
thiết kế hồ bùn đỏ” càng ngày thực tế càng chứng minh là rất chính xác. Mục
đích của hồ chứa thủy lợi giống như hồ chứa bùn đỏ, có nghĩa là người ta xây
đập bằng bê tông hoặc đất đá, có dung tích để chứa nước hoặc bùn đỏ. Khác nhau
ở chỗ áp lực, hồ thủy lợi chứa nước, dung trọng của nước 1 tấn/m3,
còn hồ bùn đỏ dung trọng bùn khoảng 1,4-1,5 tấn/m3, có chất độc hại,
ăn mòn nguy hiểm đến môi trường nên phải thiết kế độ an toàn cao hơn hồ thủy
lợi. Hồ thủy lợi thường có xả tràn, nước mặt hồ bốc hơi nhanh hơn. Nước chứa
trong hồ bùn đỏ chủ yếu gồm dung dịch kèm theo bùn đỏ và nước mưa mang tính
kiềm cao. Điều đáng quan tâm là phải xem xét hàm-lượng các chất độc trong chất
thải là bao nhiêu so với tiêu-chuẩn cho phép.
Nguy cơ thấy rõ là hồ chứa bùn đỏ về lâu dài, do tác dụng
của các vi lượng độc tố sẽ ăn mòn lớp vải địa kỹ thuật, dòng chảy thấm sẽ đi
xuống lòng đất ảnh hưởng đến nguồn nước ngầm. Khi thiết kế hồ thủy lợi hay hồ
bùn đỏ đều phải tính ổn định kết cấu như trượt, lật, lún trong điều kiện bình
thuờng cũng như có động đất. Tính ổn định thấm qua thân đập, thấm nền, riêng
đối với hồ bùn đỏ còn phải tính thêm ổn định do ăn mòn.
Tuy hồ chứa bùn đỏ ở đây không phải là đập cao, nhưng lại
chứa dung dịch độc hại nên phải được thiết kế theo tiêu chuẩn đặc biệt. Bùn đỏ
là chất lỏng có dung trọng lớn hơn nước nên áp lực lên đập lớn hơn áp lực nước,
gần bằng áp lực đất, cho nên không thể tính ổn định như đập chứa nước. Ngày ấy,
tôi đã góp ý hồ sơ thiết kế hồ bùn đỏ quá sơ sài vì không có tính toán ổn định,
hình vẽ chỉ là sơ đồ chứ không phải là bản vẽ kỹ thuật, ngay vẽ mái đập cũng
sai, ghi mái đập là 1:3 mà hình vẽ lại thể hiện mái 1:1. Trong báo cáo thiết kế
đập cho biết đây là loại đập đất đá hỗn hợp nhưng không trình bày tính lún,
tính trượt và cũng không cho biết hệ số an toàn là bao nhiêu nên không có cơ sở
khoa học để khẳng định hồ bùn đỏ an toàn.
Về thủy văn, xin lưu ý năm 1999 đã có trận mưa lớn nhất
325 mm/ngày. So sánh với cách tính trong hồ sơ thiết kế hồ bùn đỏ cho tần xuất
2%, trong khi chúng ta lại chưa có quy phạm thiết kế hồ bùn đỏ. Cần phải tính
toán xem xét lại cẩn thận tần xuất thiết kế mưa vì điều kiện khí hậu ngày càng
bất lợi, nạn phá rừng, lượng mưa sẽ biến đổi mạnh về cường độ theo cả không
gian và thời gian. Hồ sơ thiết kế thi công về phần địa chất càng sơ sài, thiếu
rất nhiều so với quy phạm thiết kế của Việt Nam . Ngay việc chọn màng địa kỹ
thuật (geomembrane) dày 1,5 mm, tính ra lượng thấm lớn nhất ở trạng thái bình
thường là 7.04x10-6 m3/s
tức là 0,61 m3/ngày đêm là không thể chấp nhận đối với an toàn của
hồ bùn đỏ. Với lượng thấm lớn như thế này chỉ sau một thời gian, chất kiềm
trong bùn đỏ sẽ xúc tác thúc đẩy nhanh hơn quá trình phân hủy của lớp màng địa
kỹ thuật ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nước ngầm xung quanh khu vực. Đấy là
chưa kể các nguy cơ chảy tràn do lượng mưa lớn vì khả năng hồ chứa có hạn.
Các hồ chứa ở Việt Nam bị vỡ xảy ra ở rất nhiều nơi trong
các mùa bão lũ do nhiều nguyên nhân như thiết kế, thi công, vận hành bảo dưỡng
vv… mặc dù khi thiết kế bao giờ chủ đầu tư cũng khẳng định là an toàn. Ngay hồ
chứa nước Nam Du ở Kiên Giang để cung cấp nước sinh hoạt sử dụng vải địa kỹ
thuật chống thấm ở đáy hồ, thiết kế an toàn theo lý thuyết nhưng khi vận hành
không giữ được nước, phải thiết kế, thi công lại. Đêm 5/11/2010 bùn thải có mầu
đỏ tấn công hàng trăm hộ dân xã Duyệt Trung, thị xã Cao Bằng vùi lấp hàng chục
ha ruộng lúa, hoa màu, tràn vào làm ngập số nhà dân do sự cố vỡ đập chắn nước
thải tuyển quặng của Xí nghiệp khai thác quặng sắt Nà Lũng, thị xã Cao Bằng. Ở
nước ta, từ thập niên 80 đã tuyển luyện pyrite (FeS2) ở Phú Thọ, Hà Sơn Bình để
lấy lưu huỳnh làm superphotphat Lâm Thao. Đến năm 1992 thấy ô nhiễm môi trường
và quá tốn kém, sản phẩm làm ra còn đắt hơn rất nhiều so với nhập khẩu nên nhà
nước đã đình chỉ khai thác pyrite. Đó là những bài học kinh nghiệm qúy báu đối
với những người có trách nhiệm về dự án bô xit Tây Nguyên.
Một số ý kiến cho rằng sự cố vỡ đê hồ thải quặng của bô
xit Tân Rai vừa qua không độc hại. Lập luận như thế là ngụy biện vì bùn thải
quặng đuôi không độc hại so với bùn đỏ thải từ quá trình sản xuất alumina nhưng
đã là chất thải thì ít nhiều đều có hại. Theo tôi biết, ở nhà máy Tân Rai có sử
dụng chất trợ lắng khi tuyển quặng, hóa chất trợ lắng chính là 1 loại hóa chất
hoạt động bề mặt. Điều đó, có nghĩa là bùn thải quặng đuôi sẽ không đơn thuần
gây ô nhiễm (làm đục) nguồn nước mà do sự có mặt của chất trợ lắng còn có thể
ngăn cản trao đổi ô xy giữa mặt nước và không khí, giảm hấp thụ ánh sáng dẫn
tới giảm khả năng quang hợp của thực vật, thủy sinh vv...
Tiến sĩ Nguyễn Văn Lạng cho rằng: ”Vừa qua chúng ta đã chế tạo thành
công công nghệ luyện từ bùn đỏ thành sắt, thép. Có nghĩa là từ bùn đỏ luyện
alumin, chúng ta đã lấy ra được lượng xút trong đó và làm cho bùn không còn
lượng xút, hoặc lượng xút rất thấp, giảm độ pH xuống còn 6-7, khiến cho bùn đỏ
luyện alumin không còn độc hại.
Loại bùn đỏ độc hại này sẽ được đưa vào trong lò cao,
dùng hơi của lò cao bằng công nghệ mới tạo ra được gang hoặc sắt, với tỷ lệ lên
đến 40-41%. Tức là bùn đỏ của Việt Nam qua quá trình laterit hóa có tỷ lệ oxit
sắt 3 (Fe2O3) rất cao, từ 46-53% nên bùn đỏ Việt Nam là một mỏ sắt có trữ lượng
trung bình. Với công nghệ chúng ta vừa mới làm và được Thủ tướng Chính phủ đồng
ý thì bùn đỏ của Tân Rai và Nhân Cơ, sau khi luyện xong và thải ra mỗi năm
khoảng 1 triệu tấn lại trở thành mỏ có 400-500.000 tấn quặng sắt và luyện ra
được sắt, gang.
Không phải là mới thử nghiệm quy mô nhỏ mà đã được thử
nghiệm lên đến 1.000 tấn. Đây là một phương pháp hoàn toàn mới, không hề được
làm trong phòng thí nghiệm. Do nhiều người không biết, không hiểu nên mới có
suy nghĩ sai lệch như thế. Hiện nay quá trình sản xuất sắt từ bùn đỏ đã được
lập thành dự án và chuẩn bị đầu tư. Tháng 10 tới đây sẽ báo cáo trước Chính phủ
để thông qua dự án đầu tư luyện sắt từ bùn đỏ. Tôi cho là hoàn toàn khả thi.”
Nghe những lời “cứu cánh” nói trên, không chỉ Thủ tướng,
mà còn đến cả Bộ chính trị hay nhiều người không có chuyên môn sâu cũng dễ bị
ngộ nhận.
Ở đây, cần phân biệt giữa hàm lượng oxit sắt và hàm lượng
sắt trong quặng bauxite ở Tây Nguyên. Tiến sĩ Lạng có sự nhầm lẫn latérite là
quặng. ACE ở ngành địa chất, thổ nhưỡng ai cũng biết nó là đá ong, sản phẩm của
quá trình tích lũy tuyệt đối sắt và nhôm. Ngoài 2 nguyên tố này, còn đáng kể là
mang gan và cả các keo hữu cơ, khoáng bị kết tủa cố kết lại với nhau. Vì thế,
hàm lượng sắt không cao như vậy. Ở đây quyết định là hàm lượng sắt trong bùn đỏ
của Tân Rai (và sau này là Nhân Cơ) là bao nhiêu một cách cụ thể, chứ không
phải là bùn đỏ nói chung.
Cái quan trọng là hàm lượng sắt trong bùn đỏ sao lại gọi
là latérite? Nếu đi đôi với bauxite mà bauxite lại là từ đá basalte, một loại
đá phún xuất bị phong hóa mà thành, chứ không phải latérite hình thành tự
nhiên. Nếu bùn đỏ là latérite thì khi latérite còn là quặng, thì hàm lượng sắt
trong đó rất thấp, cũng như sidérite, chưa nghe ai nói luyện thép từ 2 loại
quặng này, mà chỉ thấy nhắc đến hématite và magnétite thôi. Nguồn gốc
latérite tự nhiên là do nước ngầm có chứa dung dịch sắt chlorure dưới các đồi
trọc, do "nắng" hút lên những tầng đất trên mặt bị oxy hóa mà thành.
Đá ong cũng chính là một loại laterite.
Từ thập niên 70, các nước như Mỹ, Nhật Bản, Nga
vv…đã phát minh quy trình luyện bùn đỏ thành sắt thép, bằng cách sử dụng than
gày, và khí để hoàn nguyên.
Quy trình luyện bùn đỏ thành sắt thép cũng là quy trình
thông dụng trong ngành luyện kim (công nghệ phi coke) nhưng phải dùng nhiều
than. Sắt xốp đã từng được làm ở Thạch Khê, và Trại Cau (Thái Nguyên). Ở Thái
Nguyên dùng than cốc luyện qua gang thành thép (nói chính xác cốc cũng là
dạng than). Ở đây hàm lượng quặng sắt khoảng 55%, mà hiệu quả còn
thấp, trong khi bùn đỏ ở nhà máy bauxite Tây Nguyên hàm lượng quặng
sắt khoảng 30%, đấy là chưa kể chi phí phải vận chuyển hàng triệu tấn
than từ nơi xa Quảng Ninh lên Tây Nguyên hoặc phải chở toàn bộ bùn đỏ từ Tây
Nguyên xuống Bình Thuận để phát triển các dự án sắt xốp, đúng là chuyện hão
huyền, ấu trĩ về kinh tế.
Có nhà khoa học ví cái gọi là dự án sắt xốp từ bùn đỏ của
Viện Hàn lâm khoa học Việt Nam cũng giống như dự án chế tạo xe đạp, thế giới đã
làm từ lâu, chẳng có gì mới, chẳng việc gì phải nghiên cứu, chỉ lãng phí tiền
thuế của dân.
Về sắt xốp và vật liệu xây dựng về khoa học và công nghệ
ngày nay không thành vấn đề (người ta còn chế được kim cương nhân tạo cơ mà).
Luyện bùn đỏ thành sắt thép ở Tây Nguyên hoàn toàn không khả thi về kinh tế
trên các lĩnh vực: giá thành, năng lượng và vận tải phải có, thị trường 2 thứ
nguyên liệu này hoàn toàn bão hoà, thậm chí cung đang vượt cầu.
Dự án bô xít Tây Nguyên đúng là “bỏ thì thương mà vương
thì tội” vì Nhà nước đã đầu tư vào Tân Rai và Nhân Cơ khoảng 1,5 tỷ đô la.
Thiết nghĩ nhiệm vụ của các nhà khoa học, trước hết phải biết thượng tôn sự
thật và kiến thức khoa học trong sách vở cũng như từ thực tế. Sứ mạng của người
làm khoa học là sử dụng các kiến thức khoa học giúp những người lãnh đạo và
cộng đồng hiểu được một cách đúng đắn và chính xác những lợi ích cũng như nguy
cơ và ảnh hưởng của các công trình dân dụng và các đầu tư khác của xã hội. Sẽ
vô cùng nguy hiểm khi người làm khoa học do vô tình hay hữu ý sử dụng những
bằng chứng sai lệch hoặc không đầy đủ thông tin, kiến thức để ngụy biện nói lấy
được hay nói để mà nói cho những mục đích hoặc nhóm lợi ích riêng.
T.V.T
*Trên đây là bản
gốc của bài đã đăng trên Một
thế Giới.
Nhận xét