3119. Lời giới thiệu cuốn "Viết lại lịch sử Trung Hoa"
Lời
giới thiệu cuốn "Viết lại lịch sử Trung Hoa"
Ph.D. Nguyễn Đức Hiệp
Thứ ba ngày 26
tháng 8 năm 2014 5:26 AM
PNTB: Khoa học là phải khách quan, không phụ thuộc bất kỳ thế lực nào. Nếu phát hiện này thuyết phục, nó sẽ là một bước tiến của nhận thức và chắc chắn làm rúng động không phải chỉ người VN và người TQ, mà cả thế giới nhân loại.
Bài Giới thiệu cuốn sách tuy hơi dài nhưng cuốn hút người đọc.
PNTB: Khoa học là phải khách quan, không phụ thuộc bất kỳ thế lực nào. Nếu phát hiện này thuyết phục, nó sẽ là một bước tiến của nhận thức và chắc chắn làm rúng động không phải chỉ người VN và người TQ, mà cả thế giới nhân loại.
Bài Giới thiệu cuốn sách tuy hơi dài nhưng cuốn hút người đọc.
Kính dâng anh linh những người Việt từng đi
khai phá đất Trung Hoa
LỜI NÓI ĐẦU
Bạn thân mến,
Bạn đang đọc những dòng dầu tiên của cuốn
sách sẽ chấn động niềm tin và thức tỉnh lương tri bạn.
Cho đến nay, không chỉ bạn mà cả thế giới
tin rằng, người phương Tây đem văn minh đến Trung Hoa. Tới lượt mình, người
Trung Hoa mang văn minh xuống khai hóa dân An Nam mông muội. Ngôn ngữ Việt mượn
60% tiếng Hán. Văn hóa Việt là sự vay mượn văn hóa Trung Quốc chưa đến nơi đến
chốn…
Từ tri thức của thế kỷ mới, cuốn sách này
sẽ nói với bạn một sự thật trái ngược. Hàng
vạn năm trước, khi phần lớn nhân loại còn sống vùi trong băng giá thì từ Việt
Nam, người Việt đã mang rìu đá – công cụ ưu việt của loài chúng ta thời đó – đi
lên khai phá đất Trung Hoa. Rồi cũng từ Việt Nam , những lớp di dân tiếp theo
mang cây lúa, cây kê, giống gà, giống chó lên xây dựng nền văn minh nông nghiệp
rực rỡ trên Hoa lục. Tiếng nói Trung Hoa được sinh ra từ tiếng Việt. Chữ tượng
hình Giáp cốt văn Trung Hoa do người Việt sáng tạo. Kinh Thi, kinh Thư, kinh
Nhạc, kinh Lễ là của người Việt. Âm Dương, Ngũ Hành, Thiên Can, Địa Chi, Bát
Quái và Dịch lý… cũng là sáng tạo của người Việt. Nếu lịch sử một quốc gia là lịch sử của
những cộng đồng dân cư chủ đạo làm nên quốc gia đó, thì lịch sử Trung Hoa chính là lịch sử của
người Việt đã và đang sống trên đất Trung Hoa. Bạn ngỡ ngàng, bạn nghi ngờ?
Không có gì lạ vì nhiều người cũng hoài nghi như bạn! Dễ gì trong chốc lát lật
ngược sự thật bị khuất lấp hơn hai nghìn năm! Vâng, hai nghìn năm lầm lạc!
Nguyên do là trong quá khứ, người Việt bị mất đất đai, mất chữ viết nên mất
luôn lịch sử. Từ chủ nhân của nền văn minh phương Đông rực rỡ, người Việt bị
tước đoạt tất cả để trở thành đám trôi sông lạc chợ, học nhờ đọc mướn!
Rất may là, sang thế kỷ này, trí tuệ nhân
loại đã soi sáng quá khứ bị quên lãng, trả lại công bằng cho lịch sử. Vì lẽ đó,
phải viết lại lịch sử Trung
Hoa. Cuốn sách nhỏ nơi tay bạn sẽ là những dòng đầu, chương đầu của mọi
cuốn sử Trung Hoa trong tương lai.
Sau cùng, tôi xin cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn
Đức Hiệp đã vì tôi viết lời giới thiệu quý báu. Cảm ơn hai người bạn Hà Hưng Quốc
và Đỗ Ngọc Thành cho phép sử dụng tài liệu rất có giá trị cho sách này.
Sài Gòn Xuân 2013
Hà Văn Thùy
LỜI GIỚI THIỆU
Anh Hà Văn Thùy là người bạn mà tôi quen
biết từ hơn 10 năm nay qua những bài viết trước kia của anh và của riêng tôi về
lịch sử và nguồn gốc con người ở Đông Nam Á và Đông Á, dựa trên những khám phá
khoa học mới về di truyền học vào cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21. Chúng tôi đã
liên lạc qua điện thư và tiếp xúc trao đổi vài lần khi tôi có dịp về Việt Nam
qua đó tôi được biết anh không những là nhà văn, nhà báo mà trước đó anh đã là
nhà sinh học, tốt nghiệp cử nhân sinh học từ trường đại học (Hanoi University,
1963-1967)... Điều này cho tôi câu trả lời một phần về sự đam mê hăng say của
anh trong các công trình nghiên cứu về cội nguồn dân tộc Việt và các cư dân
Đông Nam Á và Đông Á qua các chứng cứ về di truyền học.
Ở Australia trong các năm 2003-2006, tôi,
anh Nguyễn Văn Tuấn và anh Cung Đình Thanh có cộng tác viết các bài về đề tài
này để đăng trên tập san Tư Tưởng do anh Cung Đình Thanh sáng lập. Chúng tôi có
liên lạc, trao đổi thông tin và chia sẻ các ý tưởng, đề tài nghiên cứu với anh
Thùy. Sau này khi anh Thanh mất, và cũng do bản thân tôi chuyển qua các lãnh
vực và đề tài nghiên cứu khác nên không còn liên lạc nhiều với anh Thùy.
Gởi email cho tôi, anh Thùy tâm sự: “Trong
đêm trường dạ ngược thời gian tìm về nguồn cội, tôi vui mừng khôn xiết khi gặp
nơi nhóm Tư tưởng đốm sáng dẫn đường. Tôi đã noi theo các anh với bao hy
vọng. Nhưng rồi anh Thanh mất, anh và anh Tuấn “theo nghề bỏ cuộc chơi”, tôi
trở nên bơ vơ…”
Có thể là bơ
vơ một lúc nào đó nhưng do có hướng rồi nên anh Thùy không bỏ cuộc. Vốn là nhà
sinh học tự phấn đấu thành nhà văn có hiểu biết nhất định về tiến trình lịch sử
dân tộc, lại may mắn được tiếp cận tư tưởng Việt Nho của triết gia Kim Định nên
khi bắt gặp những phát hiện của di truyền học, những hạt giống được gieo từ
nhiều nguồn, đã bùng phát nảy nở. Chỉ trong vòng năm năm từ 2007 tới 2011, anh
cho in ba cuốn sách: Tìm lại
cội nguồn văn hóa Việt (NXB Văn học, 2007), Hành trình tìm lại cội nguồn (Văn
học, 2008) và Tìm cội nguồn qua di truyền học (Văn học, 2011). Ba cuốn sách cùng một đề tài,
nhưng với mỗi cuốn là một sự phát hiện, là sự chín dần của tri thức và tư
tưởng. Ở lời tựa cuốn thứ ba, tác giả viết: “Trong khi hào hứng phục dựng lâu đài văn hóa nguy nga, kỳ vĩ của tộc
Việt, người viết chưa kịp đắp những bậc cấp khiến người chiêm ngưỡng chưa có
đường lên, ngờ rằng đó là “lâu đài cất bằng hơi nước!” Vì vậy, người viết thấy
cần làm cuốn sách khác, một tuyển tập những công trình nghiên cứu tiên phong và
đáng tin cậy về lĩnh vực đang quan tâm, những khảo cứu của người viết và những
bài mà các tác giả có nhã ý trao đổi, để rộng đường ngôn luận.” Và anh đã làm
được công việc mình đặt ra. Những công trình có giá trị đặt nền tảng cho khoa
học mới, nghiên cứu nguồn gốc và sự di cư của loài người đến Việt Nam của nhóm
J.Y. Chu, của Stephen Oppenheimer, của Wilhelm Solheim II
… trước đó chỉ được dẫn qua thư mục tiếng Anh, nay được dịch sang tiếng Việt.
Không chỉ bằng lòng với việc chuyển ngữ, tác giả, trong khả năng của mình, sau
mỗi bản dịch đã đưa ra bình luận riêng về những tài liệu trên, góp phần hướng
dẫn người đọc. Đúng như tác giả nói: “Với tính chất như vậy, cuốn sách này có
thể là tài liệu nhập môn giúp độc giả tiếp cận phương pháp khoa học mới trong
nghiên cứu thời tiền sử người Việt.”
Sau cuốn sách thứ ba, tác giả của tiểu thuyết Nguyễn Thị Lộ
muốn giã từ thời tiền sử để trở lại hiện tại với cuốn tiểu thuyết đang viết...
Nhưng rồi trong lúc nào đó, anh ngộ ra, tất cả những phát hiện về cội nguồn
cùng văn hóa Việt chẳng đã mở ra bí mật của thế giới Trung Hoa sao? Vì vậy, vào
mùa Xuân năm 2012 cuốn Viết lại lịch sử Trung Hoa được khởi thảo. Tác giả
tâm sự, khi bắt tay vào viết, anh cho rằng những tư liệu mình có đã đủ cho cuốn
sách. Nhưng khi những chương sách hiện ra, anh nhận thấy mình còn thiếu quá
nhiều. Vì vậy, anh dừng lại và nhờ internet, mò tay tới tận cùng trí tuệ nhân
loại để lôi ra những tri thức về Trung Hoa, từ Chu Khẩu Điếm, Ngưỡng Thiều,
Long Sơn… tới những khám phá mới nhất nơi Động Người Tiên bên bờ sông Dương Tử
đầu năm 2012, thực hành một cuộc đại kiểm kê trí tuệ nhân loại về nền văn minh
lớn nhất hành tinh! Và bằng tâm trí mẫn tiệp đặc biệt, anh đã kết nối rồi giải
mã, biến những tri thức đã biết của từng khoa học riêng lẻ, thăng hoa thành
những nhận định mới mẻ tới ngỡ ngàng…
Một bản Viết lại lịch sử Trung Hoa của anh Thùy đang nằm
trên bàn tôi với đề nghị viết lời giới thiệu. Đây là vinh dự và cũng là công
việc khó khăn, nặng nề vì với cuốn sách này, không thể viết như bài điểm sách
thông thường. Muốn có bài viết tương xứng, cần không it thời gian và tâm huyết.
*
*
*
Muốn tiếp cận cuốn sách này trước hết cần phải hiểu lịch sử hình thành
của khoa học nhân văn Việt Nam. Theo một nghĩa nào đó, thì khoa học nhân văn
Việt Nam mơ hồ đã xuất hiện những ý tưởng sơ khai từ xa xưa, khi con người
ngưỡng vọng tổ tiên thời còn ăn lông ở lỗ, với câu chuyện quả bẩu của người
Dao: “Trời sinh ra quả bầu. Sau nạn đại hồng thủy, quả bầu vỡ. Mỗi hạt bầu là
một tộc người túa ra sinh sống trên mặt đất.” Tiếp đó, từ huyền thoại Trung
Hoa, dân ta tìm được ông tổ Toại Nhân làm ra lửa, bà Nữ Oa đội đá vá trời, ông
Phục Hy làm ra Dịch và ông Thần Nông “giáo dân nghệ ngũ cốc.” Gần hơn là Cha
Rồng Lạc Long Quân cùng Mẹ Tiên Âu Cơ sinh một bọc trăm trứng… Người Việt
truyền ngôn: Việt Hoa đồng chủng đồng văn nên dòng đầu tiên của Đại Việt sử ký
toàn thư viết: “Thuở Hoàng Đế dựng muôn nước…” Những ý tưởng mang tính
khoa học nhân văn sơ khai vốn bàng bạc từ xa xưa nhưng khoa học nhân văn thực
sự của Việt Nam chỉ ra đời khi nhà nước bảo hộ Pháp thành lập Viện Viễn Đông
Bác Cổ tại Hà Nội vào năm 1898.
Ở thời điểm đó, tri thức về Viễn Đông của học giả Pháp còn nghèo nàn
nên nhân vật chính yếu của Viện là những nhà Hán học như L. Aurousseau, H.
Maspéro… Là học giả phương Tây, mặc nhiên các vị này mang quan niệm Âu trung –
Châu Âu là trung tâm của văn minh nhân loại. Vũ khí trí tuệ siêu việt của những
người đi “khai hóa” là hai định đề khoa học vững chắc: văn minh nhân loại từ
Lưỡng Hà truyền qua Hy-La sang châu Âu rồi từ đó qua Trung Á vào Trung Quốc,
sau cùng xuống Đông Nam Á. Còn con người, từ cao nguyên Tạng chuyển dịch về
phía đông nam, qua Trung Hoa tới Việt Nam. Là nhà nho, họ đương nhiên cũng là
đệ tử của quan niệm Hoa tâm – Trung Quốc là trung tâm của văn minh phương Đông.
Dưới mắt họ, Việt Nam cùng Đông Nam Á chỉ là vũng nước đọng của lịch sử! Vì
vậy, để hiểu về xứ Annam mông muội, học giả Pháp bắt đầu từ cổ thư Trung
Hoa.
Năm 1904, trong cuốn Le
Cambodge xuất bản tại Paris, viện sĩ E. Aymonier đề xuất giả thuyết: “Tổ tiên những người ngôn ngữ
Mon-khmer bắt nguồn từ những sườn núi phía nam Tây Tạng rồi di chuyển về phương
nam theo hai hướng, hướng tây nam sinh ra người Munda ở Ấn Độ, hướng đông nam
sinh ra các tộc Mon-khmer ở Đông Dương.”
Từ thuyết này, vào đầu những năm 20 thế kỷ
trước, học giả L. Aurousseau khai thác thư tịch Trung Hoa, cho rằng: “Người Việt Nam trước ở Trung Hoa
rồi mới di cư qua miền Bắc Việt Nam. Nước Sở thuộc dòng Bách Việt, lãnh thổ bao
gồm hai tỉnh Hồ Bắc và Hồ Nam ngày nay, xuất hiện trước thế kỷ thứ XI trước CN.
Ðến thế kỷ thứ IX trước CN, một ngành nước Sở di cư về phía Nam, dọc theo sông
Dương Tử, định cư ở Chiết Giang, thành lập nước Việt (Việt Vương Câu Tiễn) vào
thế kỷ thứ VI trước CN. Năm 333 trước CN, nước Sở đánh bại nước Việt, người
Việt chạy về phương Nam
theo bốn nhóm: Nhóm Ðông Âu hay là Việt Ðông ở miền Ôn Châu (Chiết Giang). Mân
Việt ở Phúc Kiến. Nam Việt ở Quảng Ðông, Quảng Tây. Lạc Việt ở phía Nam Quảng Tây và miền Bắc Việt Nam . Các nhóm kể trên bị Hán hóa,
chỉ còn lại nhóm Lạc Việt là tồn tại…”
”Vậy thời ta có đủ chứng cớ mà nói quyết
rằng người An Nam ngày nay là dòng dõi trực tiếp của người nước Việt bị diệt
năm 333, và tiên tổ ngàn xưa, về thế kỷ thứ VI trước Gia tô, đã ở miền tỉnh
Triết Giang nước Tàu ngày nay, vào khoảng lưu vực con sông cùng tên ấy”(1)
Áp dụng hai thuyết trên vào lĩnh vực ngôn
ngữ học, nhà ngữ học hàng đầu của Viễn Đông Bác Cổ L. Maspéro cho rằng: “Tiếng Việt vay mượn khoảng 70% từ
tiếng Hán.”
Một trong những học giả danh tiếng thời đó
là Georges Coedès, Giám đốc Viện Viễn Đông Bác Cổ từ thập niên 1920 đến
1950. Qua những văn bia chữ Phạn thấy ở các tháp Chăm tại Việt Nam ,
ông cho rằng Đông Nam Á chỉ là hậu thân của hai nền văn minh lớn Ấn Độ và Trung
Quốc.
Từ thập niên 1920, Viện Viễn Đông Bác Cổ
tiến hành nhiều khai quật khảo cổ học, phát hiện văn hóa đá mới Hòa Bình. Tới
thập niên 1930 tìm thấy trống đồng Đông Sơn được đúc một cách tinh xảo. Nhìn
nhận việc này, nhà nhân chủng học người Áo Robert Heine-Geldern cho rằng Đông
Nam Á là vùng đã kinh qua nhiều "làn sóng văn hóa”, và những cuộc di
cư liên tục đem đến cho Đông Nam Á những kỹ thuật hiện đại. Ông tin rằng, những
cái rìu mang hình lưỡi vòm hay những người thợ làm ra chúng chắc chắn phải
xuất phát từ miền Bắc Trung Quốc. Trống đồng Đông Sơn là thành quả của một làn
sóng văn hóa khác, xuất phát từ người Đông Âu, những người di cư về phía
Nam vào khoảng 1000 năm trước Công nguyên và đến Đông Nam Á vào khoảng 500 năm
sau đó.
Trong khi
học giả hàng đầu của Đông phương học Pháp tự khuôn mình trong định kiến hẹp như
vậy thì bức tranh toàn cảnh của khoa học nhân văn thế giới đa dạng hơn.
Thời đó đã
tồn tại hai giả thuyết về nguồn gốc con người. Giả thuyết Phi châu (Out of Africa
hypothesis.) phát biểu rằng con người hiện đại chỉ xuất hiện từ Phi châu
khoảng 100.000 đến 200.000 năm trước. Trái ngược với nó là Giả thuyết Nhiều vùng (Multiregional hypothesis) lý
giải rằng con người hiện đại tiến hóa trong nhiều địa bàn trên thế giới từ Homo erectus khoảng 1 đến 2 triệu năm trước.
Tư tưởng của Thuyết Nhiều vùng kết hợp với cổ thư Trung Hoa đã chi
phối các học giả Viễn Đông Bác Cổ, khiến họ có cái nhìn định kiến về Viễn Đông.
Tháng Giêng năm
1932, Hội nghị Khảo cổ học Quốc tế về Tiền sử Viễn Ðông họp tại Hà Nội xác
nhận: "Văn hóa Hòa Bình là trung tâm phát minh nông nghiệp và sản xuất
nông nghiệp cùng chăn nuôi gia súc đầu tiên trên thế giới. Trung tâm nông
nghiệp Hòa Bình có trước vùng Lưỡng Hà 3000 năm." (Encyclopédia
d’Archeologie). Tuy nhiên phát hiện này không được trường phái Viễn Đông Bác Cổ
ủng hộ.
Sự bảo thủ như vậy không chỉ về khảo cổ mà còn trong nhiều
lĩnh vực khác, đặc biệt là ngôn ngữ học. Cho tới năm 1905, Đại tá người
Pháp Frey, H, (1847-1932) từng làm việc tại Tây Phi và Đông Dương đã công bố ba
cuốn sách liên quan tới ngôn ngữ Việt Nam là: 1. L'Annamite, mère des langues;
communauté d'origine des races celtiques, sémitiques, soudanaises et de
l'Indo-Chine, Paris, 1892, 248p. (Tiếng Việt, mẹ của các ngữ; cộng đồng có
nguồn gốc của các chủng tộc Celtic, Do Thái, Sudan và Đông Dương); 2. Annamites
et extréme occidentaux, recherche sur l'origine des langues, Paris
Hachette, 1894, 272 p. (An Nam
và Viễn Tây, nghiên cứu về nguồn gốc của ngôn ngữ) và 3. Les Egyptiens
préhistoriques identifiés avec les Annamites, d'aprés les inions
hiéroglyphiques Paris , Hachette, 1905, 106 p.
(Người Ai Cập thời tiền sử liên hệ với An Nam qua chữ khắc tượng hình). Một
vài tác giả khác cũng có cái nhìn gần gũi với Frey: tiếng Việt là mẹ các ngôn
ngữ phương Đông. Tuy nhiên các học giả chủ chốt của Viễn Đông Bác Cổ phản bác
đề xuất này. Đặc biệt, từ năm 1933 tới 1937, có cuộc tranh luận giữa nhà ngữ
học Ba Lan Przilusky với viện sĩ Maspéro về nguồn gốc của ngôn ngữ Việt Nam.
Trong khi Przilusky đồng ý với Frey là tiếng Việt sinh ra các ngôn ngữ phương
Đông thì Maspéro cực lực phản đối, vẫn giữ quan điểm của mình: tiếng Việt vay
mượn 70% từ tiếng Trung Hoa. Ở đây, kẻ chiến thắng không phải chân lý khoa học
mà là vai vế của người tranh luận. Quan điểm của Przilusky bị bác bỏ. Các học
giả tiên phong người Việt từ Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Tố tới Đào Duy Anh học
theo rồi truyền bá thành kiến thức chính thống trong cộng đồng người Việt.
Trong khi các yếu nhân của Viễn Đông Bác Cổ cứ theo định
kiến của minh thì trên thực địa khoa học ngày càng xuất hiện nhiều tiếng nói
trái chiều.
Năm 1952, tiếp nối tư tưởng của Hội nghị
về Tiền sử Viễn Đông 20 năm trước, học giả Hoa Kỳ C. Sauer viết trong cuốn Cội
nguồn nông nghiệp và sự phát tán (Agricultural Origins and Dispersals): "Ðúng
là nông nghiệp đã tiến triển qua hai giai đoạn mà giai đoạn đầu là Văn hóa Hòa
Bình. Lúa nước đã được trồng cùng lúc với khoai sọ." “Tôi đã chứng minh Ðông Nam Á
là cái nôi của nền nông nghiệp cổ nhất. Và tôi cũng chứng minh rằng văn hóa
nông nghiệp có nguồn gốc gắn liền với đánh cá bằng lưới ở xứ này. Tôi cũng
chứng minh rằng những động vật gia súc xưa nhất bắt nguồn từ Ðông Nam Á, và đây
là trung tâm quan trọng của thế giới về kỹ thuật trồng trọt và thuần dưỡng cây
trồng bằng cách tái sinh sản thực vật."
Năm 1965, để cứu một di chỉ sắp chìm trong
hồ thủy điện, nhóm nghiên cứu của Giáo sư Solheim II được phái đến Thái Lan.
Qua hiện vật tìm được ở Động Linh hồn (Spirit Cave ),
Chester Gorman và các cộng sự ước đoán rằng Động Linh hồn đã được con
người sử dụng khoảng 10.000 năm trước CN. Tại đây, ông phát hiện một cây
rìu và dao có niên đại 7.000 năm trước CN (niên đại này còn cổ hơn các cây rìu
tìm thấy ở Trung Quốc đến 2.000 năm. Trước đó, người ta vẫn cho rằng các công
cụ như thế do Trung Quốc "xuất cảng" sang Đông Nam Á khoảng 3.000 năm
trước Công nguyên).
Năm 1972 Chester Gorman trở lại Thái Lan.
Ông tìm thấy hai động khác, và có thể kết luận rằng có một quá trình định
cư của con người tại đây khoảng 10.000 năm trước Công nguyên đến 1.000 năm
sau Công nguyên. Ông đặt tên nền kinh tế thịnh vượng này là nền kinh tế Hòa
Bình (vì các công cụ dùng có cùng hình dạng với công cụ tìm thấy tại Hòa
Bình trước đó). Năm 1966, một học trò khác của Solheim II là Donn Bayard tiến
hành khai quật một nghĩa trang thời tiền sử có tên là Non Nok Tha (Thái
Lan). Tại đây, dù chỉ đào xuống 1,5 mét, ông đã phát hiện 800 bình, lọ làm bằng
gốm được chôn cất cùng với những chủ nhân của chúng. Qua phân tích, Bayard ước
tính niên đại của các di chỉ này từ 3.500 đến 2.000 năm trước Công nguyên (thời
gian này cũng là lúc các thành phố vùng Lưỡng Hà bắt đầu xuất hiện). Ngoài
ra, Bayard còn khám phá một số công cụ như rìu, vòng đeo tay làm bằng đồng
và thiếc. Những công cụ tìm thấy ở đây hoàn toàn không có dấu hiệu thô sơ
chút nào; ngược lại, chúng cho thấy người sản xuất đã nấu chảy kim loại và đổ
khuôn. Những phát hiện tại Động Linh Hồn và nghĩa trang Non Nok Tha là một
thách thức nghiêm trọng đến những giả thuyết từng được lưu hành và
chấp nhận trước đây.
Từ những khám phá trên, vào năm 1967, Giáo
sư W.G. Solheim II đã viết:
"Tôi cho rằng khi chúng
ta nghiên cứu lại nhiều cứ liệu ở lục địa Ðông Nam Á, chúng ta hoàn toàn có thể
phát hiện ra rằng việc thuần dưỡng cây trồng đầu tiên trên thế giới đã được dân
cư Hòa Bình (Việt Nam )
thực hiện trong khoảng 10.000 năm TCN..."
"Rằng Văn hóa Hòa Bình là văn
hóa bản địa không hề chịu ảnh hưởng của bên ngoài, đưa tới Văn hóa Bắc
Sơn."
"Rằng miền Bắc và miền Trung
lục địa Ðông Nam Á có những nền văn hóa tiến bộ mà trong đó đã có sự phát triển
của dụng cụ đá mài nhẵn đầu tiên của châu Á, nếu không nói là đầu tiên của thế
giới và gốm đã được phát minh..." "Rằng không chỉ là sự thuần hóa thực
vật đầu tiên như ông Sauer đã gợi ý và chứng minh mà thôi, mà còn đi xa hơn,
nơi đây đã cung cấp tư tưởng về nông nghiệp cho phương Tây. Và sau này một số
cây đã được truyền đến Ấn Ðộ và châu Phi. Và Ðông Nam Á còn tiếp tục là một khu
vực tiên tiến ở Viễn Ðông cho đến khi Trung Quốc thay thế xung lực này vào nửa
đầu thiên niên kỷ thứ 2 TCN, tức khoảng 1500 năm TCN." (2)
Người phương Tây có ngạn ngữ “Khi đại bác
gầm thì họa mi im tiếng.” Tiếng nói trong cô đơn của nhà khoa học bị át đi
không chỉ bởi bom đạn. Điều lạ lùng là chúng không hề gây tiếng vang nào trong
giới khoa học Việt Nam .
Cũng thời gian này, dưới đạn bom, giới
khảo cổ miền Bắc Việt Nam
hồ hởi phát hiện thêm về nền văn hóa Đông Sơn với mục tiêu chính trị, chứng
minh cho thời Hùng vương trong sử Việt.
Phát huy tư tưởng Maspéro của Viễn Đông
Bác Cổ, dưới ánh đèn dầu trong lán trại sơ tán tại Đại Từ Thái Nguyên, vị giáo
sư hàng đầu của ngôn ngữ học Việt Nam Nguyễn Tài Cẩn khởi thảo công trình ngữ
học lớn: Nguồn gốc và quá
trình hình thành cách đọc Hán - Việt!Một học giả khác, Cao Xuân Hạo, đơn
thương độc mã tìm lại bản thể của ngữ pháp Việt mà theo ông đã bị các nhà Tây
học xuyên tạc!
Trong bộ môn nhân chủng học, Giáo sư
Nguyễn Đình Khoa hàng ngày rị mọ đo lại chỉ số của hơn 70 chiếc sọ trong sưu
tập sọ cổ Việt Nam, thai nghén công trình Nhân
chủng học Đông Nam Á.
Vào thập niên 1980, những công trình hoài
thai trong khói lửa đã ra đời.
Áp dụng quan niệm duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác, khoa học lịch sử Việt Nam dân chủ cộng hòa kết tội Triệu
Đà xâm lược và trục xuất thời đại nhà Triệu khỏi chính sử. Từ phát hiện về văn
hóa Đông Sơn, các sử gia Việt Nam chối bỏ truyền thuyết nhà nước Xích Quỷ năm
2879 TCN để khẳng định, lịch sử Việt bắt đầu cách nay 2700 năm.
Cuốn sách Nguồn gốc và quá trình hình thành
cách đọc Hán Việt ra đời.
Vựợt qua người thầy Tây của mình, Giáo sư Nguyễn khám phá ra trong tiếng Việt
có lớp từ Hán cổ và lớp
từHán Việt Việt hóa, mặc
nhiên thừa nhận, tiếng Việt còn vay mượn nhiều hơn 70% từ ngôn ngữ Mẹ Hán! Được
giới học thuật trong nước và quốc tế đánh giá cao, tác giả nhận Giải thưởng Hồ
Chí Minh đợt I. Trong khi đó, bằng nhiều nghiên cứu, Cao Xuân Hạo từng bước tìm
lại ngữ pháp nguyên thủy của tiếng Việt đã nhiều năm bị cải biến theo văn phạm
Gôloa! Và cố nhiên, ông trở thành con người khó chịu, không được ưa chuộng!
Trong công trình Nhân chủng học Đông Nam Á,
Giáo sư Nguyễn Đình Khoa kết luận:
“Thoạt kỳ thủy, trên lãnh thổ Việt Nam và
Đông Nam Á xuất hiện hai đại chủng Mongoloid và Australoid, họ hỗn hòa với nhau
cho ra bốn chủng Indonesien, Melanesien, Vedoid và Negritoid, thuộc nhóm loại
hình Australoid. Vào thời Ðá Mới, cư dân Ðông Nam Á thuộc hai đại chủng
Australoid và Mongoloid cùng với các loại hình hỗn chủng giữa chúng cộng cư với
nhau, trong đó Indonesien và Melanésien là hai thành phần chủ yếu. Sang
thời Ðồng-Sắt, trên toàn Ðông Nam
Á diễn ra việc chuyển hóa mạnh từ loại hình Indonesien sang loại hình Nam Á (Mongoloid phương Nam ). Thành
phần Australoid thu hẹp đến tối đa trong khu vực, không hiểu là do di dân hay
đồng hóa.”
Từ hôm nay nhìn lại, qua lăng kính di
truyền học, ta thấy rằng, đó là phát hiện cực kỳ chính xác, có thể nói, là
thành tựu cao nhất mà nền nhân chủng học “đo sọ” có được. Tuy nhiên, do hạn chế
của khoa học lúc đó, khám phá của vị giáo sư cũng như câu hỏi do ông đặt ra vẫn
treo đó!
Và cho tới năm 2003, Giáo sư Trần Quốc
Vượng, ở ngôi “tứ trụ” của sử học Việt Nam vẫn tuyên bố trên Đài BBC tiếng
Việt: “Việt Nam ủng hộ thuyết
Nhiều vùng của tổ tiên loài người.”
Có thể nói, cho tới cuối thế kỷ trước,
khoa học nhân văn Việt Nam ,
dù có những phát hiện thêm di chỉ khảo cổ học nhưng về mặt tư tưởng, chưa vượt
qua những gì được hình thành từ thời Viễn Đông Bác Cổ, thậm chí còn có những
thụt lùi.
*
* *
Dấu hiệu về sự khủng hoảng của một ngành
khoa học xuất hiện khi nó bất lực không trả lời được những câu hỏi mà cuộc sống
đặt ra. Sự khủng hoảng của khoa học nhân văn Việt Nam là có thật nhưng nói cho
cùng, nó cũng nằm trong khủng hoảng chung của khoa học nhân loại do chưa có sự
bứt phá mới, giải quyết dứt điểm vấn đề cơ bản nhất là nguồn gốc người hiện đại và quá
trình hình thành các tộc người trên Trái đất.
Và việc phải tới đã tới.
Đó là ngày 29 tháng 9 năm 1998, khi nhóm
nghiên cứu do Giáo sư J.Y Chu đứng đầu công bố công trình nghiên cứu Quan hệ di
truyền của dân cư Trung Quốc với
nội dung sau:
1. Người hiện đại Homo sapiens được
sinh ra từ Đông Phi khoảng 160.000 đến 200.000 năm trước.
2. Người tiền sử từ châu Phi băng
qua Hồng Hải, men theo bờ biển Ấn Độ dương tới Việt Nam 60.000 đến 70.000 năm trước.
3. Tại Việt Nam, họ hòa huyết, tăng
số lượng rồi 50.000 năm trước di cư ra các đảo ngoài khơi Đông Nam Á, tới Ấn
Độ. 40.000 năm trước, khí hậu phía bắc được cải thiện, họ đi lên Trung Quốc và
khoảng 30.000 năm trước vượt qua eo Bering sang chinh phục châu Mỹ.
Thông tìn trên gây chấn động giới khoa học
Mỹ vì nó có ý nghĩa lật đổ với thuyết Nhiều vùng và mở ra viễn cảnh to lớn cho
khoa học nhân văn thế giới.
Ở Australia , chúng tôi đón nhận thông
tin này như niềm vui lớn và do chuyên môn của mình, bắt tay vào cuộc nghiên
cứu. Từ năm 2001 chúng tôi đã có những bài viết đầu tiên về khám phá này và
trong các năm 2003 – 2006 đăng trên tạp chí Tư tưởng.
Anh Hà Văn Thùy tiếp cận công trình của
nhóm J.Y. Chu vào cuối năm 2004 và từ đó có trao đổi học thuật cùng chúng tôi.
Ba cuốn sách anh Thùy có được, phần quyết định là nhờ tư tưởng của những phát
hiện mới mẻ này.
*
* *
Với khoảng hơn 400 trang in, Viết lại lịch sử Trung Hoa có thể giữ kỷ lục về số chữ ít mà hàm
chứa lượng thông tin lớn:
1. Cho đến nay, dù tự hào có 24 cuốn quốc sử
(nhị thập tứ sử), người Trung Hoa vẫn chưa xác định được tổ tiên mình là ai.
Những học giả hàng đầu của Trung Quốc đang tranh nhau hai quan điểm: phái cổ
điển cho rằng, tổ tiên họ từ người Erectus Nguyên Mưu, Chu Khẩu Điếm. Phái cách
tân lại nhận tổ tiên họ là người Arian từ phương Tây tới. Trong Viết lại lịch sử Trung Hoa,
nhất quán với công bố từ trước, và với chứng cứ vững chắc hơn, tác giả khẳng
định, người Trung Quốc là
những người từ Việt Nam đi lên, trong quá trình lịch sử có hòa huyết với người
Mongoloid phương Bắc, cũng từ Việt Nam tới.
2. Một vấn đề nhạy cảm trong lịch sử
Trung Hoa là nguồn gốc của nhóm Hoa Hạ. Tác giả khám phá rằng: người Hoa Hạ
xuất hiện khoảng 2700 năm TCN, sau cuộc xâm lược của người Mongoloid phương Bắc
vào địa bàn của người Việt chủng Mongoloid phương Nam ở nam Hoàng Hà. Tại
đây, lớp con lai Mông-Việt ra đời. Nhờ được kết hợp hai dòng máu và hai văn
hóa, người Hoa Hạ trở thành lớp người ưu tú, nắm giữ vai trò lãnh đạo khối dân
Việt đông đảo, làm nên thời kỳ rực rỡ của Trung Hoa từ Nghiêu, Thuấn tới thời
Chu. Do vinh quang của tộc Hoa Hạ nên sau này, khi giành được quyền bính, những
thủ lĩnh người Việt như Tần Thủy Hoàng, Lưu Bang cùng bộ phận lớn người Việt
cũng nhận là Hoa Hạ.
3. Trái ngược với niềm tin vững chãi
trong giới ngữ học quốc tế theo giả thuyết của nhà ngữ học Thụy Điển Bernhard Karlgren cho rằng tiếng Trung Hoa thuộc ngữ hệ
Hán Tạng, rằng tiếng Việt vay mượn 60% từ ngôn ngữ Trung Hoa; với nhiều bằng
chứng khó phản bác, tác giả chứng minh, tiếng
Trung Hoa là tiếng Việt cổ được nói theo cách nói Mông Cổ (Mongol parlance) và không hề có cái
gọi là ngôn ngữ nguyên Hán Tạng (Proto
Sino-Tibetan)
4. Cho đến nay, ngoài huyền thoại Hoàng
Đế sai Thương Hiệt chế chữ thì người Trung Hoa chưa chứng minh được ai sáng tạo
chữ vuông tượng hình. Trong tác phẩm của mình, với nhiều bằng chứng khó tranh
cãi, tác giả cho thấy, người Việt cổ ở phía nam Dương Tử sáng chế ra chữ tượng
hình, từ những nét sơ khai tại bãi đá Sapa tới chữ Giả Hồ, Cảm Tang và cao nhất
là Giáp cốt văn tại An Dương Hà Nam. Khi xâm lăng Hà Nam , nhà Ân đã học chữ của người
Việt rồi phát triển lên.
5. Phát hiện thứ năm của tác giả là xác
định hai nền văn hóa trên đất Trung Hoa. Trong thời gian dài sinh sống trên đất
Trung Hoa, người Việt đã xây dựng ở đây nền văn hóa nông nghiệp phát triển. Với
cuộc xâm lăng của Hiên Viên và sự xuất hiện nhóm Hoa Hạ, văn hóa trên đất Trung
Hoa chuyển sang giai đoạn rực rỡ tới cuối đời Tây Chu. Sau đó, do nhiều biến
động lịch sử, những tộc người du mục xâm nhập, đồng thời bản năng du mục trong
khối Hoa Hạ trỗi dậy, đẩy Trung Hoa vào thời Chiến Quốc tàn bạo. Các đế chế
Trung Hoa hình thành, ngày thêm khuếch trương bản năng du mục, tạo ra khuôn mặt
của văn hóa Trung Hoa hiện đại.
6. Trong một bài viết, tác giả yêu cầu
“Trả lại công bằng cho lịch sử.” Với những trước tác của mình, tác giả không
những đã trả lại công bằng cho lịch sử mà hơn nữa, tìm ra bài học quý giá từ
lịch sử.
Chúng ta đều biết,
khoảng 10.000 năm trước, khi Kỷ Băng hà cuối cùng chấm dứt, người phương Tây
thuần hóa con cừu con dê đầu tiên, bước vào phương thức sống du mục. Nhưng từ
50-60000 năm trước đó, tại địa đàng phương Đông, người Việt đã có cuộc sống xã
hội rồi sớm bước vào nông nghiệp. Chính nông nghiệp làm nên văn hóa rực rỡ của
phương Đông. 400 năm trước, chủ nghĩa tư bản của văn minh du mục với thép, vi
trùng và súng tiến vào hủy diệt văn hóa phương Đông và đến nay đang đe dọa hủy
diệt nhân loại. Trí tuệ nhân loại đang bị khủng hoảng, chưa tìm ra lối thoát.
Những bộ óc hàng đầu của phương Tây cho rằng vấn nạn của nhân loại ngày nay là
do nữ quyền bị chén ép.
Một sai lầm chết người! Không phải là nữ quyền mà vấn đề lớn hơn mang tầm vũ
trụ: sự phá vỡ cân bằng Âm
Dương của thế giới! Là con
đẻ của văn minh du mục, chủ nghĩa tư bản đã đẩy thế giới vận hành theo chiều
Dương cực thịnh, Âm cực suy, dẫn tới đổ vỡ. Làm sao đây cứu nguy nhân loại?
Minh triết phương Đông chỉ ra: phải hướng thế giới trở lại vận hành hài hòa
theo chiềutham thiên lưỡng địa của
văn hóa nông nghiệp Việt tộc, tức dành cho Cha, cho Dương 3 phần, thì cũng dành
2 phần cho Âm, cho Mẹ!
*
* *
Ở trên, tôi có nói tới cuộc khủng hoảng
của khoa học nhân văn Việt Nam. Không có gì bất thường vì nó là một bộ phận của
cuộc khủng hoảng chung của khoa học nhân văn thế giới, khi bằng tận lực của mọi
công nghệ cùng phương pháp luận cũ, con người vẫn bất lực trong việc giải quyết
vấn đề căn cơ nhất là nguồn gốc của nhân loại và sự hinh thành các dân tộc trên
hành tinh. Mọi hành vi lịch sử, văn hóa đều là sản phẩm hoạt động xã hội của
con người vì vậy chỉ có thể hiểu thấu đáo lịch sử văn hóa khi hiểu thấu đáo
chính con người!
Trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, một công nghệ
mới cùng với phương pháp luận mới đã mở ra cơ hội lớn của khoa học nhân văn.
Con người tìm lại chính xác tổ tiên cội nguồn không còn qua hiện vật khảo cổ
hay những mẩu xương hóa thạch mà là tìm ngay trong chính dòng máu linh thiêng
của mình.
Là may mắn, nhưng có lẽ đúng hơn là do
duyên nghiệp, nên tuy không phải bỏ ra đồng xèng nào cho những công trình di
truyền học, người Việt Nam thụ đắc khối lượng lớn kết quả nghiên cứu của nhân
loại. Kỳ diệu sao, tất cả những khám phá lẫy lừng thập niên đầu thế kỷ đều
chứng minh rằng, con người tiền sử từ châu Phi tới Việt Nam rồi lan ra toàn
châu Á; rằng, người Việt Nam có đa dạng di truyền cao nhất trong các sắc dân Đông
Á… Một khi Việt Nam đã là cái nôi của các dân tộc châu Á, mặc nhiên cũng là nôi
của văn minh châu Á!
Bằng công trình của mình, nhà nghiên cứu
Hà Văn Thuy trên thực tế, đã đặt nền móng cho khoa học nhân văn Việt Nam hiện
đại và đưa khoa học nhân văn Việt Nam đứng vào hàng tiên phong của thế giới.
Nhận thấy đây là công trình có giá trị,
mặc dầu có vài lý giải có thể còn chưa được sự đồng thuận của nhiều nhà nghiên
cứu hiện nay ở trong và ngoài nước, tôi trân trọng giới thiệu công trình nghiên
cứu công phu này của anh Hà Văn Thùy đến bạn đọc.
Sydney, ngày 15/06/2013
Ph.D. Nguyễn Đức Hiệp
Chuyên gia Khoa
học khí quyển
Bộ Môi trường và Bảo tồn, New South Wales, Australia
Tài liệu tham khảo:
1. L. Aurousseau. Khảo về cỗi rễ dân An Nam. Bản dịch của Hồng Nhân Phạm
Quỳnh. Nam Phong tạp chí số 84, tháng 6-1924, tr.480
2. W.G. Solheime II. New light on Forgotten Past. National Geographic, Vol. 139, No. 3,
tháng 3 năm 1971.)
3. J.Y. Chu et al. Genetic Relationship of Population
in China. Proc. Natl.
Acad. Sci.USA 1998 số 95 tr. 11763-11768)
Sách khảo cứu VIẾT LẠI
LỊCH SỬ TRUNG HOA được nhà văn Hà Văn Thùy hoàn thành năm 2013, được đưa
lên amazon.com, tại địa chỉ :
Nhận xét