2957. Lời giới thiệu sách: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ DÂN CHỦ ĐỘC TÀI VÀ PHÁT TRIỂN

Lời giới thiệu sách: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ DÂN CHỦ ĐỘC TÀI VÀ PHÁT TRIỂN

của GS.TS Hồ Sĩ Quý (Viện Thông tin KHXH). Nxb. Lý luận Chính trị, 2014

Lê Văn Toan

Tôi được đọc cuốn sách này khi nó còn đang trong hình thức ban đầu của một ý tưởng khoa học. Ngay từ lúc đó tôi đã nghĩ đến việc sao cho kết quả này phải đến được với bạn đọc - các chính khách, các nhà nghiên cứu, những cán bộ giảng dạy, những nhà hoạt động chính trị xã hội và đông đảo những người muốn tìm tòi nhận thức sâu hơn về vấn đề - vấn đề của những vấn đề làm nên sự thịnh suy của mỗi quốc gia - dân chủ, độc tài và phát triển.

Với tôi, nội dung cuốn sách thật ấn tượng về phương diện khoa học. Những truy tầm tư liệu công phu và đầy ắp thông tin. Những khảo cứu lịch sử thật tỷ mỉ và đa diện. Những sự kiện được bóc tách và cố tìm ra bản chất theo nhiều lớp. Những phân tích khách quan và khá “tận bờ sát góc”. Những đánh giá có thể gọi là chí lý mà không hề thoát ly hoàn cảnh…


Cuốn sách chia làm ba chương. Chương đầu mổ xẻ những vấn đề cấp thiết về lý luận. Chương cuối phân tích những vấn đề bức xúc trong thực tiễn. Còn chương II, với số trang dày dặn hơn, bàn đến những hiện tượng, những sự kiện, những nhân vật và những quan hệ phức tạp giữa dân chủ, độc tài ở phát triển ở một số quốc gia. Kết cấu này rõ ràng là một phương án được cân nhắc kỹ. Không hề ngẫu nhiên tác giả chia ra như thế, trong khi, theo tôi, tất cả những vấn đề, những quan niệm, quan điểm trong toàn cuốn sách đều được bàn từ góc độ lý luận, đều có tính thực tiễn rất cao và lại đều là những vấn đề đậm chất thời sự.

Về các vấn đề thuộc lịch sử dân chủ và độc tài, lâu nay chúng ta thường nghe nói đến những tư tưởng manh nha, những thiết chế chưa hoàn thiện của nền chính trị dân chủ và độc tài của thời cổ đại. Nhưng đây có lẽ là cuốn sách hiếm hoi ở Việt Nam cho chúng ta biết những hiện tượng đầu tiên trong lịch sử nhân loại được gọi là độc tài và dân chủ cùng với các chế độ xã hội tương ứng hình thành và triển khai như thế nào.


Theo tác giả, nền dân chủ Athens, nền dân chủ đầu tiên của loài người, chính thức được hình thành bắt đầu vào năm 510 TrCN, dưới thời Cleisthenes. “Lúc đó,  quyền lực của một thể chế dân chủ được quyết định bởi một Hội đồng thành phố, gồm những người tự do và giới quý tộc có gốc bản địa Athens. Các kỳ họp Đại hội đồng và Hội đồng là nơi diễn ra quyết định mọi công việc của thành bang thông qua lá phiếu của các đại cử tri. Ngay từ lúc đó, chính quyền thành bang đã sử dụng các hình thức phản biện công khai, bỏ phiếu tín nhiệm, phê bình nội bộ, kể cả đối với những người vừa có công tham gia lật đổ chế độ bạo chúa Peisistratos trước đó. Các đợt ân xá chính trị cũng được thảo luận và bỏ phiếu tại hội đồng. Cơ chế này ổn định và có hiệu quả đến tận khi Alexandros Đại đế trị vì Hy Lạp vào thế kỷ III TrCN, chấm dứt một trong những thí nghiệm thành công nhất của nhân loại về chính quyền tự quản của công dân” (xem chương I, phần 1.2.). Đọc những dòng này, tôi giật mình nghĩ rằng, các hình thức dân chủ mà người Hy Lạp cổ đại đã nghĩ ra và sử dụng trong nhiều thế kỷ lại chính là các hình thức mà nhiều nơi trong xã hội hiện đại đang cố gắng xây dựng.

Điều cũng đáng ngạc nhiên trong cơ chế dân chủ Hy Lạp là, với số lượng 30.000 Ủy viên Hội đồng trong số 250.000 cử tri, có đến khoảng 5.000 người thường xuyên phải tham dự các cuộc họp của Đại hội đồng, ít nhất là 40 ngày trong một năm. Đây là kiểu tổ chức quốc hội chuyên nghiệp mà ngày nay cũng không nhiều nước trên thế giới có khả năng tổ chức thực hiện. Bảng tham vấn về công việc của thành bang Athens hàng năm cũng có tới 6.000 công dân được lựa chọn để phỏng vấn. Ngày nay, với một cuộc điều tra xã hội học thì 6.000 phiếu phỏng vấn đã là một cuộc phỏng vấn được coi là quy mô mà nhiều nhà khoa học phải mơ ước (xem chương I, phần I mục 2).
Tác giả khẳng định rằng: “Dân chủ là vũ khí hữu hiệu để ngăn chặn tình trạng lạm quyền. Logic tự nhiên của quyền lực, như Jean-Jacques Rousseau đã nhắc nhở, luôn đi theo xu hướng lạm quyền, dù ban đầu động cơ khởi thủy của quyền lực có thể là vì dân một cách trong sáng… Quyền lực không bị kiểm soát, không có chế tài luôn luôn là điều nguy hiểm. Cho đến nay, chưa có trường hợp nào thật sự an toàn khi quyền lực tuyệt đối bị rơi vào tay một người hoặc một nhóm người... Không thể đem sinh mạng hay đời sống của đại đa số cư dân đặt cược vào lòng tốt hay lời hứa đạo đức đơn thuần…” (xem chương I, phần I mục 2).
Về độc tài, theo tác giả, khái niệm độc tài không xuất hiện sau khái niệm dân chủ. Đọc lại lịch sử, người ta có thể thấy các xã hội cả một thời kỳ dài trước Công nguyên đều ngổn ngang những hình ảnh đầy bạo lực, hà khắc, thậm chí đẫm máu, dù luôn được chép lại dưới hình thức thi vị hóa hay anh hùng ca. Được quan tâm ngay từ Plato và Aristotle, nhưng “đến thế kỷ I TrCN - thế kỷ VI, độc tài và chế độ độc tài mới trở thành các khái niệm tương đối xác định về phương diện chính trị và pháp quyền, do được thực tế làm sâu sắc hơn và phong phú hơn bởi những sự kiện oai hùng và bi tráng của một đế chế hùng mạnh vào loại bậc nhất đồng thời tồn tại lâu nhất trong lịch sử nhân loại - Đế quốc La Mã” (xem chương I, phần I.4.). Thời đó, “Độc tài” là một kiểu cai trị hợp hiến được Viện nguyên lão La Mã chuẩn y, nhằm khôi phục lại trật tự chính trị để ổn định Đế quốc La Mã.
Nhìn về phương Đông, tác giả cuốn sách cho biết rằng, các chế độ chuyên chế phương Đông khác nhiều, nếu không nói là khác hoàn toàn so với các chế độ độc tài kinh điển châu Âu. “Người đứng đầu tầng lớp cai trị châu Á ở phương Đông gắn nhiều hơn với xã hội thế tục, sức mạnh thần quyền ít được khai thác sử dụng, ngay cả đối với các nước có quốc giáo. Tuy vậy, chế độ chuyên chế của cá nhân nhà vua dựa trên pháp luật nhiều khi rất vô lối của vương triều và của bộ máy quan liêu của nhà nước, quân đội, cũng rất độc đoán, tàn bạo. Điều đáng nói là sự độc đoán, tàn bạo này thường không hề che giấu, là công cụ cai trị của một cá nhân duy nhất... Một vài triều đại như Tần Thủy Hoàng, Võ Tắc Thiên ở Trung Quốc; Thành Cát Tư Hãn ở Mông Cổ; hay Tamerlane ở Tây Á… còn bị sử sách coi là những hoàng đế của các triều đại tàn nhẫn, hà khắc nhất trong xã hội loài người” (xem chương I, phần I.4.). Là người nghiên cứu nhiều về phương Đông, tôi thấy nhận xét của tác giả thật đáng suy ngẫm. Từ lịch sử tác giả khẳng định rằng: “Đến cuối thế kỷ XX, gần như không còn một lý thuyết nào công nhiên bênh vực chế độ độc tài. Những kết quả tích cực có thể có của phương thức cai trị độc tài, trên thực tế, đều phải trả bằng những cái giá đắt nhất về phương diện xã hội, và thường không tránh khỏi để lại những hệ lụy đớn đau cho nhiều thế hệ về sau” (xem chương I, phần I mục 4).
Chương II của cuốn sách là một kho tư liệu khổng lồ về các chế độ dân chủ và độc tài trên thế giới cùng với những vấn đề của chúng về phương diện phát triển. Những tư liệu vô cùng phong phú, vừa chi tiết, cụ thể vừa chắt lọc, điển hình của các chế độ xã hội ở Venezuela, Brasil, Peru, Chile, Nicaragua, Thái Lan, Philippines, Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc và ở Liên Xô thời Stalin đã được phân tích và xem xét phải nói là đủ kỹ lưỡng. Chúng tôi ngạc nhiên với khối tư liệu mà cuốn sách đã xử lý, nhưng chúng tôi còn ngạc nhiên hơn với các tư liệu quý mà tác giả khai thác được, dù các tư liệu ấy đôi khi nằm ngay trong tầm với của các giá sách mà không ít chúng ta vẫn thường bỏ qua. Thật khó đưa ra các nhận xét đầy đủ về những nước, những chế độ chính trị - xã hội mà tác giả đã phân tích mối quan hệ giữa phương thức cai trị và khả năng của chúng trong việc thúc đẩy hay kìm hãm xã hội phát triển. Mỗi sự kiện, hiện tượng lịch sử hiện ra như một gợi ý không dễ đánh giá theo kiểu một chiều. Mỗi quốc gia lại hiện ra như một kinh nghiệm đặc thù, vừa có điều cần bắt chước vừa có điều cần phải tránh xa. Mỗi chính khách được đề cập tới lại đi vào lịch sử như những nhân cách đáng phải day dứt không dễ chiêm nghiệm cho các thế hệ đi sau.
Chẳng hạn, về Singapore, cuốn sách chỉ ra rằng, vào những năm 60, GDP của Singapore chỉ dưới 500 USD/người. Lúc đó Singapore nghèo, loay hoay tìm đường phát triển. Sau hai thập niên, năm 1985 GDP của Singapore là 10.811 USD/người, nghĩa là đã vượt qua ngưỡng bị coi là nước nghèo. Không rơi vào bẫy thu nhập trung bình và dừng lại ở đó, Singapore tiếp tục phát triển và trở thành NIC, một trong 4 con hổ châu Á - điều kỳ diệu của thế kỷ XX. Đến năm 2007, GDP (tính theo PPP) Singapore là 35.163 USD đầu người năm; Chỉ số phát triển con người  (HDI) 2009 là 0,944, xếp hạng 23/182 nước. Huyền thoại Singapore gắn liền với tên tuổi Lý Quang Diệu - lãnh tụ của Singapore giai đoạn 1959-1990, ông gần như được cả thế giới ngưỡng mộ.
Tuy nhiên, khi sử dụng các tư liệu của Tom Plate, Devan Nair, George T., Uri Gordon…, cuốn sách lại cho biết thêm những góc khuất của Singapore. Theo tác giả, phương thức quản lý của Lý Quang Diệu có thể là bình thường đối với một bộ phận dân chúng Singapore nào đó, nhưng lại là vi phạm tự do đối với một bộ phận cư dân khác. “Khi Singapore “hóa rồng”, tất cả những can thiệp phi lý, tàn nhẫn, vượt quá thẩm quyền của Lý Quang Diệu lại trở thành công lao” (xem chương II, phần II.4.2.). Để quản lý Singapore, Lý quang Diệu đã không ngần ngại sử dụng các thủ đoạn đối với phe đối lập và cả đối với dân chúng. Trong việc tiêu diệt đối thủ của mình, chiến thuật của ông có thể so sánh được với việc dùng một quả bom nguyên tử để tấn công một con muỗi. Cuốn sách kết luận: “Khi Singapore được cả thế giới nhìn nhận là một đảo quốc thịnh vượng, an toàn và trong sạch, với sự có mặt của các tập đoàn đa quốc gia hùng mạnh nhất trên thế giới, người ta thường chỉ rút ra kết luận rằng, nếu không có một nhà lãnh đạo như ông Lý, Singapore sẽ phải mất nhiều thời gian hơn để đạt được những thành tựu mà thế giới đang chứng kiến và muốn bắt chước. Lý Quang Diệu đã một lần nữa chứng minh cho quan điểm chuyên chính cực đoan tư bản chủ nghĩa – Mục đích có thể biện minh cho biện pháp, dù biện pháp ấy chẳng hề chính đáng chút nào”.

Tôi nghĩ thật khó phủ nhận ý kiến này của tác giả.
GS. TS Hồ Sĩ Quý, tác giả cuốn sách





Về hai xã hội thành công nhất của thế kỷ XX, Hàn Quốc và Đài Loan, tác giả đánh giá: “Hàn quốc là tấm gương chưa từng có tiền lệ trong lịch sử để các nước đi sau nghiên cứu, tham khảo. Nhưng con đường tăng trưởng, phát triển rồi hóa rồng thông qua phương thức độc tài để đi đến dân chủ ở Hàn Quốc là một quá trình nghiệt ngã, đầy mâu thuẫn và không nên đánh giá một cách giản đơn” (xem chương II, phần II mục 2). Còn Đài Loan, “từ tình trạng thiếu tài nguyên với vài chục triệu người sống ở mức nghèo đói, sau khoảng 30 năm đã “cất cánh”, hoá rồng và dân chủ hóa. Tôi chú ý đến nhận định của tác giả rằng, điều thần kỳ về kinh tế Đài Loan nên được coi là kém ngoạn mục so với điều thần kỳ về đời sống xã hội. Ý kiến này thật đáng suy ngẫm.


Theo tác giả, ở Đài Loan, “chính quyền nhận ra giá trị của dân chủ và có ý thức cải biến xã hội. Các lực lượng chính trị cố gắng chuyển đổi xã hội trong khuôn khổ một trật tự ôn hòa, cải cách, chứ không cách mạng. Người dân được làm quen với các giá trị dân chủ và chẳng bao lâu đã làm chủ được giá trị dân chủ. Nền kinh tế - xã hội phát triển năng động, biết phát huy nguồn lực con người đã dẫn đến sự xuất hiện tầng lớp trung lưu quan tâm đến văn hóa, văn minh, dân chủ và tiến bộ xã hội. Một xã hội tôn trọng học vấn, có nền giáo dục tiên tiến, có trình độ nguồn nhân lực cao và đồng đều, có nền văn hóa kết hợp được truyền thống và hiện đại. Một xã hội có chính thể tiếp thu được áp lực quốc tế, chuyển từ độc đoán, độc tài sang thể chế dân chủ và đã ghi được những tư tưởng này vào Hiến pháp. Một xã hội có tầng lớp lãnh đạo có trách nhiệm, dám quyết định; chính phủ sẵn sàng với mọi trách nhiệm quốc gia và quốc tế. Một xã hội dân sự đủ trưởng thành, gánh được các trách nhiệm dân sự, điều tiết được các hoạt động xã hội theo hướng lành mạnh. Một xã hội có pháp luật nghiêm và tương đối công bằng, không chùn bước trước tham nhũng, không nương nhẹ với chủ nghĩa tư bản thân hữu, kiểm soát được tội phạm và tệ nạn xã hội. Một xã hội mà về đại thể, quần chúng nhân dân trở thành một lực lượng chính trị ôn hòa, đấu tranh bất bạo động cho các mục tiêu tiến bộ v.v.” (xem chương II, phần II mục 2).


Chương III của cuốn sách bàn về một số vấn đề thực tiễn - về cái giá phải trả của tình trạng mất dân chủ; về dân chủ hóa theo phương thức từ trên xuống; về trình độ tiếp nhận dân chủ của xã hội; về vấn đề độc tài sáng suốt. Quả thực đó là những vấn đề rất thực tiễn, nóng, nhưng tôi muốn nói thêm cũng rất lý luận – lý luận về thực tiễn. Lập luận của tác giả phải nói là sắc bén. Chứng cứ đủ thuyết phục. Và, tâm huyết của người viết đối với sự phát triển của đất nước cũng đủ rõ, dù tác giả không muốn thể hiện tường minh điều đó.

Theo tác giả, tính đến nay, hệ lụy của các xã hội độc tài, dù là ở Hàn quốc hay Philippines, ở Chile hay Peru, ở Nga hay Đức... đều là những hệ lụy vẫn còn gây nhiều rắc rối cho sự phát triển ở các nước này và cũng không kém phần trực tiếp ảnh hưởng đến thế giới. Khép lại quá khứ và bình thường hóa các quan hệ xã hội không hẳn là điều dễ dàng, cần phải có thời gian, và có những vết thương lại cần phải rất nhiều thời gian. “Ngày nay, độc tài, toàn trị, hay chuyên chế đều là những cách thức không thể ứng dụng, dù chủ thể ứng dụng có chân thành hay nhân văn đến mấy. Những trường hợp độc tài được coi là sáng suốt, độc tài nhưng tâm huyết với sự phát triển của quốc gia và dân tộc, độc tài nhưng nhằm tới các mục tiêu nhân văn... chỉ có thể kể được ít ỏi vài quốc gia - Liên Xô thời Stalin, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan và phần nào đó là Malaysia. Chỉ có thế, danh sách này không thể dài hơn được. Các chính thể độc tài, chuyên chế khác - tất cả đều chẳng những không thúc đẩy được sự phát triển, mà còn trực tiếp đẩy xã hội vào những tình huống không mong muốn, cả về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa và đạo đức, gây tai họa và hệ lụy cho thế hệ đương thời và nhiều thế hệ về sau” (xem chương III). Về điều này, bên cạnh sự phân tích sâu sắc, tác giả đã trích lại một khẳng định của Aristotle mà tôi cho rằng, ngay cả trong trích dẫn, người viết cũng đã dẫn chúng ta tới một sự chọn lựa đắt giá: “Không có một lập luận nào mà người ta dựa vào đó để cho rằng mình có quyền cai trị và bắt kẻ khác phải phục tùng được xem là đúng đắn. Đối với những kẻ cho rằng mình có quyền cai trị vì có đức độ hay tài sản hơn người, thì đa số có thể trả lời dễ dàng rằng chính đa số - một cách tập thể - mới tốt hơn và giàu có hơn một thiểu số” (Aristotle. Chính trị luận. Nxb. Thế giới. H. 2012, tr. 186.). 

Lý giải cho lý do không nên đặt cược niềm tin vào sự độc tài gọi là sáng suốt, tác giả cho rằng, ngày nay, do điều kiện khách quan quy định, “quản lý vĩ mô không phải là sự nghiệp của một hay một vài người, hoặc dòng họ như trước đây. Việc cập nhật và xử lý thông tin xuyên quốc gia, liên kết phối hợp sử dụng tri thức, công nghệ và kinh nghiệm của nhiều người, nhiều vùng... để tìm kiếm các phương án tối ưu cho mọi việc, sẽ làm cho công việc lãnh đạo quản lý (xử lý thông tin và ra quyết định) trở nên thuận lợi hơn và giảm áp lực cho các chính khách. Về thực chất, đây là cách quản lý dân chủ, đồng thời tối ưu. Phương thức cai trị độc đoán, độc tài ngày nay không có được lợi thế này” (xem chương III).

Cuối cuốn sách, tác giả kết luận: “Dân chủ cần phải trở thành một thứ văn hoá tồn tại một cách tự nhiên, ngấm sâu trong đời sống xã hội. Những điều tích cực chỉ khi đã ăn sâu vào đời sống văn hoá, vào phong tục, tập quán, thì mới có thể coi là đã hoàn thành và tồn tại bền vững, trở thành nhân tố điều chỉnh hành vi. Nếu dân chủ chỉ tồn tại một cách hình thức, hời hợt, hoặc chỉ như một thứ trang trí, tô vẽ cho vẻ bề ngoài của xã hội thì nó không thể tạo ra các quan hệ dân sự thực sự có sức mạnh, làm nhiệm vụ điều chỉnh hành vi xã hội và bảo vệ xã hội trong giờ phút hiểm nghèo. Sự kiện Liên Xô và Đông Âu sụp đổ chỉ rõ, chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa ở các nước này, trên thực tế thiếu các quan hệ thực sự dân chủ làm cơ sở tinh thần cho sự bền vững của chế độ. Do vậy, dân chủ chưa trở thành văn hoá điều chỉnh hành vi xã hội và tự bảo vệ xã hội, chưa trở thành vũ khí của quần chúng. Toàn bộ sự tồn vong của chế độ khi đó chỉ trông vào sức mạnh của bộ máy quyền lực. Bộ máy đó đổ là chế độ chẳng còn. Vì thế, hậu quả nguy hiểm nhất của mất dân chủ là sự mất khả năng đề kháng của xã hội trước sự tấn công của kẻ thù” (xem phần Kết luận).

Còn rất nhiều điều đã nói trong cuốn sách mà tôi chưa thể giới thiệu hết với độc giả. Và với hệ vấn đề này, lại cũng còn nhiều hơn thế những điều mà cuốn sách chưa kịp đề cập hay chưa có điều kiện để bàn luận. Dĩ nhiên không phải mọi ý kiến của tác giả và của các tác giả khác có trong cuốn sách tôi đều đồng ý. Cũng như không phải mọi lập luận của tác giả đều đã đạt tới trình độ thỏa mãn sự chú ý của tôi. Nhưng, những điều mà tác giả đã làm được đã đủ khiến tôi rất trân trọng công sức lao động của tác giả. Chắc là không kém phần nhọc nhằn. Chỉ tính riêng những số liệu, những trích dẫn, những nguồn tư liệu đã khai thác… độc giả chắc cũng sẽ đồng ý với tôi về độ chuẩn xác và tin cậy rất cao trong cuốn sách. Tính thời sự của các hiện tượng và dữ liệu cũng rất cập nhật. Trong cuốn sách chúng ta có thể bắt gặp những tác phẩm mới nhất của Tom Plate, David Heid, Amartya Sen hay Lý Quang Diệu..., những số liệu mới nhất của World Values Survey, WB, IMF hay Democracy Index… Tính khoa học của việc xử lý các dữ liệu này chắc chắn sẽ góp phần làm nên giá trị cuốn sách. Thêm vào đó, còn là văn phong, lập luận và diễn đạt. Trong sự cảm nhận của tôi, cuốn sách là một trong số không nhiều tác phẩm lý luận viết về những vấn đề khó, phức tạp mà lại được trình bày bằng lối diễn đạt, giản dị, kiệm ngôn và phải nói là mạch lạc và trong sáng. Khái niệm, phạm trù, thuật ngữ… thường là rất chắt lọc.

Chắc chắn cuốn sách sẽ không làm phí thì giờ mà bạn đọc giành cho nó.

Xin chúc mừng và cám ơn tác giả!
Hà Nội, tháng Ba năm 2014
PGS.TS. Lê Văn Toan 
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh




Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

5044. Màu đỏ Artek

5485. Vì sao nước Đức hùng mạnh? (Kỳ 1)

6272. Kịch tính vụ kit Việt Á ngày càng cao.