1276.ĐẠI TƯỚNG VỀ LẠI VŨNG CHÙA- NƠI MỘT THỜI MÁU LỬA

Nhân ngày 22/12 :ĐẠI TƯỚNG VỀ LẠI VŨNG CHÙA- NƠI MỘT THỜI MÁU LỬA : 

CẢNH GIANG ( Quảng Bình)

Ngày 30/3/1972, quân ta nổ súng mở màn cho cuộc tấn công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam. Ngày 31/3/1972, thực hiện lời kêu gọi của ban chấp hành trung ương, quân ủy Trung ương dưới sự chỉ huy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: ” Chiến dịch lịch sử năm 1972 bắt đầu “( Lịch sử Quân đội NDVN, năm 1990 tập II trang 91-93 ).
Trên khắp các chiến trường miền Nam, đặc biệt tại mặt trận Trị- Thiên- Huế, tiếng súng tiến công của quân và dân ta đồng loạt nổ khắp nơi, nhanh chóng đập tan tuyến phòng thủ vòng ngoài Quân đội SÀi Gòn. Chỉ sau năm ngày tiến công, các huyện Gio Linh, Cam Lộ, Quảng Trị được giải phóng.
 Mỹ thua to, bắn phá điên cuồng các tuyến giao thông nơi cuống họng Quảng Bình, Vĩnh Linh. Tổng thống Ních Xơn ra lệnh : Phong tỏa hệ thống giao thông đường thủy của miền Bắc, việc vận chuyển hàng hóa cho chiến trường miền Nam giảm đi đáng kể. Trước tình hình đó, trung ương giao cho Quảng Bình nhiệm vụ quan trọng: Tiếp nhận lương thực viện trợ của nước bạn Trung Quốc tại Khu vực Hòn La – Vũng Chùa Đảo Yến.
Thực hiện nhiệm vụ của Quân ủy Trung ương giao, thường vụ Tỉnh ủy Quảng Bình, xây dựng kế hoạch tiếp nhận hàng lấy tên là: ” Chiến dịch Hòn La “, mang mật danh KHR1, và lập ban chỉ đạo chiến dịch mật danh ” R1 “. Lực lượng huy động cho chiến dịch gồm 11 xã vùng biển của hai huện Quảng Trạch và Bố Trạch. Bộ phận cảng vụ, hoa tiêu và 159 công nhân bốc vác cảng Gianh, công ty ô tô vận tải Quảng Bình, cán bộ chiến sĩ hai đại đội 363 và 365 bộ đội địa phương Bố Trạch và Quảng Trạch. Cùng với tuyến vận tải  R1 Hòn La, tỉnh lập 3 tuyến vận tải đường bộ nhằm chuyển nhanh hết hàng hóa về nơi tập kết an toàn và tiếp tục chuyển vào Nam.
Ngày 25 /5/1972 chuyến hàng đầu tiên do tàu ” Hồng Kỳ 150″ chở 6.000 tấn gạo của nhân dân Trung Quốc vào vịnh Hòn La- Vũng Chùa Đảo Yến.
Đêm 30/5/1972, lợi dụng yếu tố bất ngờ ta dùng tàu VS, bí mật vận chuyển vào cảng Gianh được 500 tấn gạo. Ngày 01/6/1972, hạm đội 7 của Mỹ đưa 3 chiếc tàu neo đậu, cách tàu ” Hồng Kỳ 150″ , 10 km, bắn phá liên tục vào bờ trên chiều dài từ cửa Gianh đến Quảng Đông, Quảng Trạch. Trên trời máy bay quần đảo suốt ngày đêm, trinh sát bắn vào những mục tiêu chúng nghi ngờ. Ban đêm chúng thả pháo sáng vào vùng biển Hòn La, soi rõ cả một vùng. Từng gốc cây, ngọn cỏ, các vật trôi nổi trên mặt biển đều bị máy bay Mỹ săm soi, bắn phá.
Trước tình hình đó, Quân khu IV và tỉnh đội Quảng Bình quyết định thành lập “Đại đội Cảm tử Hòn La” để thực hiện nhiệm vụ vận chuyển gạo vào bờ bằng mọi giá. Nhằm làm nồng cốt cho các lực lượng dân sự cùng tham gia chiến dịch.
 ông Lại Văn Ly, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Bình  thời kỳ 1968 – 1975 Người được Thường vụ tỉnh ủy phân công chỉ huy chiến dịch Hòn La (Mật danh  R1). Cùng  Đồng chí Trần Sự,  tỉnh đội trưởng, tỉnh đội Quảng Bình, ký Quyết định thành lập “Đại đội Cảm tử Hòn La” .
Quân số đại đội (100% con em ở các xã miền biển) gồm: 
- Tiểu đoàn 45 tỉnh đội Quảng Bình: 1 trung đội (gọi là trung đội 45) , 20 đ/c
- Tiểu đoàn 46 tỉnh đội Quảng Bình: 1 trung đội (gọi là trung đội 46) , 20 đ/c
- Các đơn vị huyện đội bổ sung gồm:
          + Huyện đội Bố Trạch (363): 12 đồng chí;
          + Huyện đội Quảng Trạch (365):22 đồng chí;
          + Thị đội Đồng Hới (300): 12 đồng chí;
          + Huyện đội Quảng Ninh (362): 4 đồng chí; 
          + Đại đội 48 tỉnh đội Quảng Bình: 5 đồng chí.
Ngày 15/6/1972 tất cả các chiến sĩ thuộc “Đại đội Cảm tử Hòn La”  đã tập kết đầy đủ tại thôn Thanh Bình xã Quảng Xuân, huyện Quảng Trạch.
Đồng chí Đại uý Đậu Trọng Sản, đại diện cho tỉnh đội phụ trách “Đại đội Cảm tử Hòn La”  và chỉ đạo chiến dịch.
Đồng chí Phạm Đức Hồi trung đội trưởng trung đội 46 phụ trách chính trị viên đại đội.
“Đại đội Cảm tử Hòn La”  hoạt động được 15 ngày, tỉnh đội bổ sung đồng chí Trần Đình Lô cán bộ của thị đội Đồng Hới về làm đại đội trưởng. Cuối tháng 8/1972 địch tái chiếm Thành Cổ Quảng Trị. Đề phòng địch đổ bộ Quảng Bình, tỉnh đội rút  đồng chí  Lô về lại đơn vị cũ.
 Những chiến công hào hùng của ” Đại đội Cảm tử Hòn La “.
          Do tính phức tạp của chiến dịch, ban ngày tàu hải quân Mỹ đỗ cách tàu Hồng Kỳ khoảng trên/dưới 10km, ban đêm chúng vào gần tàu Hồng Kỳ quan sát dưới ánh sáng của 10,15 ngọn đèn dù liên tục thắp sáng bờ biển Quảng Trạch, trên không có hai chiếc máy bay trực thăng giám sát liên tục  24h/24h. trên đất liền, từng tốp máy bay A37 liên tục ném bom vào các vị trí mà chúng nghi có gạo và thuyền bè của bộ đội cất giấu. Trước tình hình đó, “Đại đội Cảm tử Hòn La”  tổ chức họp lấy sáng kiến tập thể và thống nhất cách thức hoạt động như sau:
- Giai đoạn 1: ”Lao ngang” – 30 ngày đầu dùng thuyền đánh cá của dân (mỗi thuyền gồm 5 đến 6 chiến sĩ) 18 giờ 30 hàng ngày xuất phát từ thôn Thanh Bình xã Quảng Xuân, huyện Quảng Trạch. Trước khi thực nhiệm vụ, đại đội tổ chức làm lễ truy điệu sống và giao nhiệm vụ cho các đội thuyền. Trong quá trình hoạt động 100% chuyến thuyền đi ra tàu Bạn đều an toàn, thuyền cập mạn tàu để bóc gạo xuống đủ trọng tải, khi các thuyền di chuyển (cách tàu HK-150 khoảng 200m) thì  địch phát hiện và cho hải quân và không quân tiến hành tiêu diệt, kèm theo dưới đáy biển dày đặc bom từ trường và thủy lôi. Ngày đầu tiên đi thí điểm 3 thuyền thì bị pháo địch phát hiện và đánh chìm 1 thuyền làm 3 đồng chí hy sinh còn 2 thuyền đưa được 6 tấn gạo cập bến an toàn. Các ngày thực hiện nhiệm vụ vận chuyển gạo tiếp theo của giai đoạn 1, đã có nhiều đồng chí đã hy sinh. Trong đó có đồng chí Phan Thạnh thuộc đơn vị 363 huyện đội Bố Trạch đã mất tích ở tuổi 20, còn các đồng chí khác được đồng đội tìm được xác và đưa về mai táng tại nghĩa trang quê nhà.
- Giai đoạn 2: “Lao dọc” Sau một tháng hoạt động địch tiêu diệt quá nhiều thuyền và nhiều đồng chí đã hy sinh. Để tạo bất ngờ đại đội tổ chức phương án ”Lao dọc” có nghĩa là mở con đường máu gần nhất để tạo bất ngờ đối với địch bằng cách cho thuyền xuất phát từ Quảng Xuân đi dọc bờ biển đến vũng Chùa thuộc xã Quảng Đông, bất ngờ đổi hướng đi trực diện ra tàu HK-150 bốc gạo xong cho thuyền đi thẳng vào bờ và đến gần bờ đổi hướng đi dọc bờ biển chở gạo về Quảng Xuân.         Có nhiều thuyền  vào bờ trời gần sáng, nên lao vào bốc gạo tại bãi biển xã Quảng Đông và Bí mất giấu thuyền. Các tổ thuyền ở lại  tại xã Quảng Đông, tối đến chèo thuyền ra tàu bốc gạo và chở vào xã Quảng Xuân.
          Quá trình vận chuyển được một tuần thì bị địch phát hiện, cho máy bay A37 và tàu chiến liên tục thả bom và nã pháo vào các đội thuyền làm tê liệt chiến thuật lao dọc của “Đại đội Cảm tử Hòn La” . Đồng thời cho máy bay trực thăng HU1A của hải quân Mỹ ban ngày bay từng tốp hai chiếc quần lượn dọc bờ biển từ xã Quảng Phúc đến xã Quảng Đông bắn rốc két phá  thuyền của dân.
Ngày 27/07/1972 tàu HK 150 nhổ neo về nước, quân và dân Quảng Bình bốc được 5000 tấn gạo, còn lại 1000 tấn gạo trên tàu bạn chở về Trung Quốc. Để thay đổi phương thức hoạt động, ta yêu cầu bạn (Trung Quốc) đóng gạo bốn bì chống thấm nước và chuẩn bị các bọc lưới, mỗi bọc đựng được 16 bao gạo (8 tạ). Cuối tháng 7 tàu thứ 2 mang số biển số: HK – 152 chở 6000 tấn gạo vào neo đậu tại Vũng Chùa, Đảo La. Gạo được đóng 4 bì (2 lớp ni long chống thấm nước), đ/c Nguyễn Ngọc Kính Trưởng ty thủy sản Quảng Bình nghĩ ra cách  tời gạo.
          – Giai đoạn 3: ”Tời gạo” do không còn thuyền để tiếp tục vận chuyển, Ban chỉ huy chiến dịch tổ chức họp và nhất trí sáng kiến vận chuyển gạo mới “Tời gạo”: Trên tàu Hồng Kỳ HK-152 của Trung Quốc dùng một máy nổ quay tời, ở trong bờ chúng tôi lợi dụng các gốc cây phi lao cổ thụ buộc ròng rọc tạo ra hệ thống tời hoàn chỉnh, mỗi một lần tời được 10 bọc gạo (8 tấn gạo). Một đêm tời được 2 lần, có đêm chỉ tời được một lần do địch đánh phá ác liệt làm đứt dây tời.
Hai mươi đồng chí được cử đi làm nhiệm vụ tời gạo tại thôn Vĩnh Sơn xã Quảng Đông. Trước khi đi đại đội tổ chức làm  lễ truy điệu sống. Đồng chí Đậu Trọng Sản trực tiếp chỉ huy.
 Sau 1 tháng  “Đại đội Cảm tử Hòn La”   đã đưa được 231 tấn gạo vào bờ an toàn. Trước sự khâm phục của các thủy thủ tàu Trung Quốc. 
Trung bình 1 đồng chí đã đưa được gần 12 tấn gạo vào bờ, góp phần chi viện cho chiến trường miền Nam. Trong thời gian tời gạo có 5 đồng chí bị thương. Nhiều đồng chí bị sức ép của bom Mỹ. Những đêm không có gió, khói bom dày đặc, “Đại đội Cảm tử Hòn La”  phải dùng khăn tẩm nước để thở, nhiều đồng chí bị ngất xỉu do hít quá nhiều khói bom.
Để tiêu diệt đại đội cảm tử, đế quốc Mỹ đã dùng các loại vũ khí man rợ nhất được Liên hiệp quốc cấm sử dụng như: (Bom bi khoan, pháo cháy phốt pho, pháo tiêu diệt bộ binh, pháo phóng đinh…)
          Hải quân và không quân Mỹ tập trung hỏa lực kiềm chế và tiêu diệt bộ phận tời gạo của “Đại đội Cảm tử Hòn La”  tại Vũng Chùa, Đảo La. Tận dụng sơ hở của địch, bộ phận còn lại ở Quảng Xuân vẫn tiếp tục dùng thuyền chuyển gạo từ tàu vào bờ với những hình thức linh hoạt khi lao dọc, khi lao ngang, làm cho kẻ địch phân tán lực lượng. Giai đoạn này “Đại đội Cảm tử Hòn La”  hoạt động có hiệu quả và ít tổn thất nhất.
          – Giai đoạn 4: Đến cuối tháng 8 đầu tháng 9 trời bắt đầu chuyển mùa, gió mùa đông bắc xuất hiện, lệnh của tỉnh đội cho biết tàu Hồng Kỳ chuẩn bị nhổ neo chở số gạo còn lại trên tàu về nước, “Đại đội Cảm tử Hòn La”  bằng mọi cách phải bốc được càng nhiều gạo càng tốt. Lợi dụng gió mùa đông bắc, “Đại đội Cảm tử Hòn La”  cử người ra tàu ném gạo xuống biển để gió mùa thổi dạt vào bờ. Máy bay trực thăng địch liên tục bắn đạn 20mm vào các bao gạo trôi trên biển.
          Máy bay Mỹ có thể bắn chìm thuyền, chìm từng bao gạo đang trôi trên biển nhưng không tiêu diệt được ý chí dũng cảm của “Đại đội Cảm tử Hòn La” .
 Ngày 22/9/1972 tàu HK-152 nhổ neo về nước, đại đội đã thu gom số gạo dọc bờ biển và gạo gửi trong nhà dân chuyển vào chiến trường miền Nam.
          Cuối tháng 9, ở Quảng Trạch có một trận lụt cả cánh đồng Quảng Xuân nước ngập đến cổ, “Đại đội Cảm tử Hòn La”  thu nhặt gạo trôi dạt vào bờ mỗi người dùng một dây thừng buộc 20 bao gạo, lợi dụng nước lụt kéo gạo lên quốc lộ 1A bốc lên xe chở vào nam.
          Chiến dịch Hòn La “Đại đội Cảm tử Hòn La”   cùng với các đơn vị dân sự vận chuyển được 21 nghìn tấn gạo. Đây là một kỳ tích của quân và dân Quảng Bình nói chung và của “Đại đội Cảm tử Hòn La” nói riêng.
Kết thúc chiến dịch  “Đại đội Cảm tử Hòn La”  đã hy sinh 21 đồng chí, hàng chục đồng chí mang trên mình đầy thương tích.  Các bao gạo chở vào chiến trường thấm máu đào của các chiến sĩ “Đại đội Cảm tử Hòn La” . Họ đã âm thầm cống hiến, hy sinh cho Tổ quốc, cho đến  ngày toàn thắng. 
Hơn 3 tháng hoạt động ( tháng 6/1972 – tháng 9/1972 ). Để khống chế và ngăn chặn, việc chuyển gạo từ ” Hồng Kỳ 150″, ” Hồng Kỳ 152″,  ” Hồng Kỳ 162A “,” Hồng Kỳ 162B”  Đế quốc Mỹ đã huy động 1.500 lần chiếc máy bay, đánh phá hơn 700 trận, trong đó có 341 trận đánh đêm, thả hàng nghìn pháo sáng, ném xuống hơn 1000 loạt bom phá, 149 loạt bom bi, 540 loạt rốc két, 606 loạt đạn 20 li, 124 đạn cối, 96 quả bom Na pan, hơn 1000 quả thủy lôi, 150 quả từ trường…( Lịch sử Quảng Bình chống Mỹ cứu nước 1954-1975 trang 303) .  95 đồng chí trong “Đại đội Cảm tử Hòn La”  đã cùng Quân và dân Quảng Bình,  góp phần buộc đế quốc Mỹ ký  hiệp định Pa Ri, kết thúc chiến tranh ở Việt Nam.

Bốn mươi năm đã đi qua, “Đại đội Cảm tử Hòn La”  đã đi vào quên lãng. Nhưng tấm lòng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vẫn không quên Hòn La, Vũng Chùa – Đảo Yến, những ngày máu lửa, nơi  quân dân quê Ông với  các chiến dịch  VT5, ” Chiến dịch Hòn La “, nơi có “Đại đội Cảm tử Hòn La” đã tổ chức 25 lần làm lễ truy điệu sống trước khi  đi làm  nhiệm vụ, đã cùng quân dân Quảng Bình chuyển được 21 000 tấn gạo cho chiến trường miền Nam . 
Và chắc chắn nơi Đại tướng nằm yên nghỉ, hàng năm  vào ngày 15 tháng 6 , Ông sẽ cùng các chiến sĩ còn lại của “Đại đội Cảm tử Hòn La”  tổ chức  thả Hương Hoa xuống biển Hòn La – Vũng Chùa – Đảo Yến để  tưởng nhớ các đồng đội đã hy sinh trong chiến dịch  ” Chiến dịch Hòn La ” mật danh R1 năm 1972, và cùng các chiến sĩ những người con quê hương Quảng Bình ôn lại một thời tuổi trẻ xông pha, một thời hy sinh và cống hiến

.
                                                        CẢNH GIANG
                       Thanh Trạch – Bố Trạch- Quảng Bình        

( Tác giả gửi cho QTXM)

Nguồn: Quà tặng xứ mưa   

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

5044. Màu đỏ Artek

5485. Vì sao nước Đức hùng mạnh? (Kỳ 1)

6272. Kịch tính vụ kit Việt Á ngày càng cao.