Chuyến đi công tác ngày ấy
Chuyến đi công tác ngày ấy
Hồi ức của Nguyễn Ngọc Dương
Tháng Hai năm
1969 tôi được điều chuyển công tác sang phòng Tổ chức Dân chính huyện (sau này
gọi là phòng Tổ chức Chính quyền, rồi phòng Nội vụ). Mùa thu năm ấy có cuộc bầu
cử Hội đồng nhân dân các cấp mà phòng này có nhiệm vụ chính trong việc tham mưu
cho Huyện ủy và Ủy ban Hành chính huyện tổ chức bầu cử.
Dáng người lẻo khoẻo, hay ốm đau, nhưng có chút năng
khiếu viết lách nên tôi được Trưởng phòng phân công ngồi ở văn phòng tổng hợp.
Vào ngày cuối cùng của công tác chuẩn bị cuộc bầu cử, cán bộ, nhân viên của
phòng đổ hết xuống các xã, các khu vực bầu cử, ở nhà chỉ còn Trưởng phòng và
tôi thường trực. Sau mấy ngày túi bụi công việc, tôi mệt mỏi ngả lưng xuống cái
giường một ở cơ quan nơi sơ tán trong rừng, thiếp đi, mặc cho anh Nguyễn Văn
Triệu - Trưởng phòng không lúc nào rời chiếc máy điện thoại quay từ thạch để
bàn.
Đang say giấc, tôi giật mình vì Trưởng phòng vừa gọi
vừa đập vào người: “Dậy, dậy có việc gấp đây! Xã Gia Phú báo về có chuyện phải
xử lý ngay. Cái phiếu bầu Hội đồng nhân dân huyện ở một đơn vị bầu cử in thiếu
mất tên một ứng cử viên. Ác cái là lại mất tên của “ứng cử viên lãnh đạo không
đắc cử” (sau này có người gọi là “quân xanh”). Rồi anh nhấn mạnh: “Thà như
phiếu bầu Hội đồng nhân dân xã cứ huy động giáo viên viết bằng tay cả thì không
sao, đằng này phiếu bầu cấp huyện trên đã cho phép in typo, bây giờ thiếu một
người viết thêm bút mực vào là có chuyện. Giả sử người bị “lãnh đạo không đắc cử” phát
đơn kiện Tổ chức bầu cử là cố tình “đánh dấu” để họ không trúng là mình phạm
luật, không cãi được, phải hầu tòa là cái chắc!” Mới hai mốt tuổi đầu, nghe
thấy hai chữ “hầu tòa” tôi dựng tóc gáy! Mình là cái thá gì, một nhân viên nhãi
nhép, biết ai “quân xanh, quân đỏ”! Nhưng trong cơ quan tham mưu về nhân sự cho
Huyện ủy, Ủy ban thì khi có chuyện cũng phải liên đới trách nhiệm. Đang như
người ốm khật khừ, tôi bỗng tỉnh hẳn và hỏi: “Vậy làm thế nào bây giở hả anh?”
Anh Triệu bảo: “Ban Tổ chức Dân chính tỉnh đang cho in lại phiếu rồi. Nhưng làm
thế nào ngay đêm nay số phiếu bầu ấy phải chuyển được đến đơn vị bầu cử Tả
Thàng, một khu vực vùng cao của xã Gia Phú để 6 giờ sáng mai kịp khai mạc cuộc
bầu”. “Vậy thì em phải đi Lào Cai ngay, nhưng lúc này không có tàu, mà xe đạp
cũng không...”. “Anh đã mượn cho chú cái
xe đạp rồi, phải đi ngay mới kịp, đạp xe hơn 50 cây số, đường lại dốc, chắc
phải tối mịt mới lên đến thị xã. Mà chú phải kiểm tra lại phiếu nếu có sai sót
gì phải in lại ngay rồi mang ra tầu, mười giờ đêm xuôi xuống ga Thái Niên, sang
đò tìm đến nhà chị phó chủ tịch xã...”. Kế hoạch đã được Trưởng phòng vạch ra
cụ thể. Tôi ăn vội cái bánh bao thiếu bột nở, (đúng ra là nắm bột mì luộc) của bếp ăn tập thể cấp cho từ sáng vẫn để dành,
rồi yên tâm lên đường. Anh triệu còn giúi vào tay tôi một chai nước sôi để
nguội, mấy viên thuốc cảm aspirine và dặn: “Nhiệm vụ của cậu là không được ốm
giữa đường nghe chưa! Ốm mà chậm vài tiếng là hoàn toàn toàn thất bại đấy!”. Tôi
đạp xe ra Bắc Ngầm ngược đường Hữu nghị 7 (nay là Quốc lộ 70) lên Lào Cai.
Sẩm tối, tôi lên đến Phố Tèo, thị xã Lào Cai, nơi có
nhà máy in của tỉnh. Anh Nguyễn Văn Khải, chuyên gia tổ chức chính quyền tỉnh
đứng chờ sẵn dưới gốc cây Ngọc Lan. Thấy tôi lọc cọc đạp xe tới, anh mừng quýnh:
“Ối giời ơi, đây rồi!... Cậu kiểm tra ngay xem có sai sót gì không?”. Tôi lấy
một tờ phiếu xem kỹ lại và nói: “Đúng rồi anh ạ”. “Thôi thế là tốt” – Anh Khải
nói vậy rồi cho người vác bọc phiếu bầu ra ga cho tôi. Tàu thời chiến, để tránh
máy bay Mỹ, không chỗ nào có ánh điện. Nơi bán vé chỉ có cái đèn bão được bịt
kín chỉ để hở một luồng sáng vàng vọt đủ nhìn thấy đôi tay và những tấm vé đưa
vào máy dập ngày. Cái nhà ga cuối cùng trên con đường sắt Hà Nội – Lào Cai gần
sát đầu cầu Hồ Kiều nối liền với thị trấn Hà Khẩu (Trung Quốc) mà lèo tèo, vắng
như chùa Bà Đanh. Ngồi trong bóng tối, tôi ôm bọc phiếu bầu, giữ như “thày giữ
ấn”, chờ cho nhà ga mở cửa ra tàu...
11 giờ đêm, con
tàu hỏa già nua mới kéo một hồi còi dài, hộc lên mấy tiếng rồi ì ạch đưa tôi
đến ga Thái Niên thì đã gần 12 giờ. Vác bọc phiếu bầu xuống toa cuối cùng lấy
xe đạp, buộc vào gác ba ga thật chắc chắn rồi tôi dắt xuống bến đò. Con đò
ngang giờ này vẫn thức để còn đón khách đi tàu. Phía hữu ngạn là thôn Thái Bo đang
chìm trong đêm tối. Hỏi thăm một vị khách đi cùng đò lúc nãy, tôi biết phải đến
cuối thôn Hòa Lạc mới tìm được đến nhà chị Lù Thị Vy, phó chủ tịch xã. Đường
làng ở đây tựa như đường mòn trong rừng, chỉ đủ một người đi bộ. Những ngôi sao
về khuya vẫn nhấp nháy và có vẻ sáng hơn, đủ để nhìn thấy đường đi. Tôi dắt
chiếc xe đạp đèo bọc ấn phẩm nên rất vướng víu khi phải lách qua những lùm cây
dại, cỏ tranh, chè vè... Toàn thân tôi lúc này đau nhức, mỏi mệt, bủn rủn chân
tay. Bỗng nhớ ra từ sáng đến giờ, ngoài nắm bột mì luộc ban trưa, cái dạ dày chưa
hề được bổ sung thêm một thứ gì. Chai nước cũng đã hết từ chiều. Tàu đêm thời
chiến có ai bán gì ăn được. Mà nếu có thì trong túi cũng đâu còn tiền. Ngoài
mấy đồng tiền vé thì “tài khoản” đã rỗng. Mồ hôi trên mặt, trên lưng túa ra... Lúc
này tôi chỉ thèm được ngồi phệt xuống. Trong đầu nghĩ, nếu được vậy thì bất
chấp chỗ ấy là chỗ nào, bẩn hay sạch, ướt hay ráo, tôi sẽ mặc cho cái xe đạp
cùng bọc phiếu bầu đổ ập vào người và nằm xuống mà... đánh một giấc rồi muốn ra
sao thì ra! Nhưng câu nói của Trưởng phòng: “Nhiệm vụ của cậu là không được ốm
giữa đường...” lại văng vẳng bên tai. Đành nghiến răng cắm đầu đi. Thỉnh thoảng
một con chim gì đó ngủ trên cây thấy động, giật mình đập cánh phành phạch bay
lên... Đến đầu thôn Hòa Lạc, không khí có vẻ vui hơn bởi tiếng chó sủa râm ran.
Tôi tìm nhà phó chủ tịch xã Lù Thị Vy theo “tọa độ”. Nhà lãnh đạo xã lúc ấy
cũng như nhà dân, chẳng có đặc điểm gì để phân biệt nên để tìm được nhà phó chủ
tịch giữa đêm hôm thế này khác gì tìm cây thuốc trong rừng. Tôi mạnh dạn gõ cửa
một ngôi nhà bất kỳ theo cảm giác. Chờ cho chủ nhà dậy, lục cục mãi mới đánh
lửa, châm được ngọn đèn lên, tôi mới thành thật xin lỗi và hỏi thăm.
Nhà chị Vy nuôi nhiều chó quá, một đàn xông ra làm
huyên náo cả vùng, thành thử không phải gõ cửa. Từ chiều, chị đã nhận được điện
thoại trên huyện nên đã biết kế hoạch. Chị dậy châm đèn đón tôi. Ở chiếc giường
kê gian giữa, anh chồng đang say giấc, bị quấy rầy nên làu bàu gì đó bằng tiếng
Xá Phó làm tôi hơi chờn. Mặc dù mệt và buồn ngủ lắm nhưng tôi vẫn mạnh dạn đề
xuất: “Chị còn cơm nguội cho em bát!”. “Còn đấy. Nhưng để tôi làm thức ăn cho
đã”. Chị xuống bếp hì hục lấy giậng dao giã cái gì đó cành cạch. Lát sau chị bê
lên. Trên cái mâm gỗ cũ kỹ, đen xỉn là một nồi cơm nguội, một bát thức ăn đã
được chế biến. Đói và mệt nhưng và miếng cơm nguội gạo lốc cứng quèo vào miệng,
trệu trạo nhai cũng thấy bùi bùi. Rón rén gắp
chút thức ăn đưa lên miệng. Một vị mặn, cay và tanh lan tỏa. Tôi nhớ ra đã
có lần được thưởng thức món này ở đâu đó. Một con cá mại nướng được giã với ớt
chỉ thiên và muối trắng, món ăn không kém phần độc đáo. Bởi không quen nên tí
nữa thì tôi đã ói ra mật xanh mật vàng... Vội đứng dậy xin Phó chủ tịch xã chén
nước. Tôi chỉ kịp trao đổi qua với chị là, bằng mọi giá, 5 giờ sáng chị phải
cho người chuyển được ấn phẩm lên đến khu vực bỏ phiếu Tả Thàng. Chị bảo, chú
cứ yên tâm, lên ngủ với anh đi. Tôi ngại quá vì lúc mới đến, anh ấy vẫn nằm
trên giường làu bàu cái gì chả biết. Nhưng vẫn phải đánh liều nhẹ nhàng nằm
xuống, men mén ra phía mép giường, không dám thở mạnh. Giấc ngủ ập đến tự lúc
nào, chẳng kịp nghĩ ngợi gì...
Thấy tiếng ồn ào, tôi giật mình tỉnh giấc, mơ màng như
người vừa từ âm phủ trở về. Kim đồng hồ đã chỉ 8 giờ. Qua lỗ thủng ở chái nhà
phía đông, ánh nắng xuyên một đường thẳng vào cái giường tôi nằm. Một số cán bộ
xã đã đi bỏ phiếu về tề tựu ở nhà chị Vy đang mổ vịt, nấu cơm nhộn nhịp như nhà
có đám. Chị Vy cho biết, mọi việc đều đã ổn. Bốn giờ sáng nay, chị đã cho liên
lạc đi ngựa xuyên rừng mang phiếu bầu lên Tả Thàng, kịp khai mạc. Đến giờ này
toàn xã đã có hơn bốn mươi phần trăm cử tri đi bầu...
Cơm xong, tôi cáo từ mọi người về huyện để còn kịp
tham gia công tác tổng hợp kết quả bầu cử. Đường về huyện lúc này đi phía hữu
ngạn sông Hồng, khoảng hai chục cây số nhưng phải xuyên qua nhiều dèo dốc và
rừng rậm. Lên dốc thì choãi chân đẩy xe, xuống dốc thì vừa bóp phanh vừa nín
thở khi xe nhẩy qua những “ổ trâu”, hay những tảng đá mồ côi nằm nghênh ngang
giữa lối. Trời đang nắng bỗng tối sầm như sắp có mưa rào. Gặp con suối Trát,
mọi khi nước trong veo, người ta vẫn dắt xe đạp, xắn quần lội qua, nhưng hôm
nay nước lại to và đục ngầu. Tôi cởi quần dài buộc hai ống quần vào cổ, vác xe
đạp lên vai lội ào xuống, chuệnh choạng như đứa trẻ tập đi. Vừa đến giữa suối,
nghe tiếng ầm ầm từ phía thượng nguồn. Tôi giật mình nghĩ đến lũ ống. Hai chân
run bần bật, vẫn rướn mình cố qua nhanh tránh lũ. Nhưng không kịp... Như thể
một cơn sóng thần ập đến, tôi bị ngã chúi xuống, chìm nghỉm trong dòng nước hung
dữ và lạnh buốt... Bỗng tôi thấy khựng lại, cả người và xe đạp bị một vật gì
níu chặt. Hóa ra, giắt vào một chùm rễ cây lớn ngay mép bờ bên kia. Tôi bấu vào
những sợi rễ cây lần lên bãi cát nằm bất động như một cái xác chết. Nhưng trong
đầu vẫn nghĩ nếu nằm đây, nước dâng thêm chút nữa thì chắc phải đi hầu Hà Bá.
Tôi cố gượng dậy và vẫn kéo lê được cái xe đạp lên chỗ cao.
Nằm một lúc, tôi dậy dựng chiếc xe đạp lên, bẻ cái que
gẩy lại sợi xích vào bánh líp. Đường vẫn vắng, tịnh không có một người qua lại.
Rất may là cái quần dài quấn cổ vẫn còn, chỉ trôi mất đôi dép. Thế là phúc rồi.
Chắc Diêm Vương bảo, cái thằng này có xuống âm phủ cũng chẳng được tích sự gì,
người thì xanh xao yếu ớt, nghe đâu có mấy con bé định yêu rồi lại chạy mất dép?
Thôi, để cho nó làm công tác Tổ chức ở
trên ấy còn có lúc được việc...
Tối mịt tôi mới về đến cơ quan. Ngày ấy, anh em chúng
tôi từ trưởng phòng đến nhân viên hầu hết là ở tập thể trong những ngôi nhà tạm
cột chôn, vách nứa nơi sơ tán. Bếp ăn tập thể, mỗi tháng nộp mười tám đồng,
ngày sáu hào chia làm hai bữa. Lương của tôi ba mươi sáu đồng, trừ tiền ăn vẫn
còn mười tám đồng để may mặc và tiêu vặt. Cả nước đều thế. Có lẽ, làm đến ông
Bộ trưởng thì cũng chẳng hơn những người lao động là mấy. Khẩu hiệu: “Tất cả vì
tiền tuyến, tất cả vì miền Nam
ruột thịt”. Vì mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, thống nhất đất nước nên ai
cũng lạc quan, yêu đời. Một khi ai cũng giống ai thì làm sao có thể nhận thấy
sự vất vả, khổ sở. Lúc ấy, chưa ai được chiêm ngưỡng những kẻ giầu “nứt đố đổ
vách”. Đọc Tắt đèn của Ngô Tất Tố thấy ông tả nhà Nghị Quế có những đống rơm,
cót thóc cao chất ngất, ngồi sập gụ, nhà có đồng hồ treo tường, ăn cơm với giò
lụa...mà ước ao, thèm khát. Ở Việt Nam lúc này đâu có tìm thấy những
đại gia, những quan chức thừa tiền do tham nhũng, mánh lới mà có, sinh ra ăn
chơi trác táng, làm loạn xã hội... Lúc ấy cả huyện, cả tỉnh, cả nước triệu
người như một, đồng tâm, đồng sức, đoàn kết với nhau trong một cộng đồng, không
sợ hy sinh, gian khổ. Người ta có thể chết cho lý tưởng, cho sự nghiệp của Dân
tộc mà nhẹ như không!...
Về cơ quan, tôi có cảm giác như về chính ngôi nhà của
mình. Tôi lăn ra ngủ, ngủ như thể tôi chưa từng tồn tại ở trên đời, mặc cho anh
chị em đang phải túi bụi với công việc tổng hợp kết quả bầu cử để báo cáo Tỉnh.
Sáng hôm sau, bất giác tỉnh dậy vào khoảng 9 giờ, tôi nghe thấy trưởng phòng
nói: “Cứ để nó ngủ. Chắc còn mệt. Nhưng cái thằng, nó đi kiểu gì mà cái khung
xe Thống nhất gẫy đôi ở chỗ mối hàn gần cổ phốt mà nó không biết gì! May mà về
đến nhà vẫn an toàn”. Nghe thấy câu ấy, tôi vùng dậy: “Ấy chết, anh ơi để em
mang chữa cho người ta rồi cơ quan trừ dần vào lương tháng cho em cũng được,”.
Anh Triệu cười hiền: “Chữa rồi ông tướng ạ. Tối qua cậu về, tớ phát hiện ra
ngay, mang ra hiệu sửa xe đạp thị trấn, người ta hàn lại, sơn lại như mới”.
Tôi biết, Trưởng phòng đã móc tiền túi làm việc ấy,
bởi cơ quan làm gì có tiền chi vào những việc “không đâu” ấy.
(Đã đăng trên Tạp chí Phansipang số 145 - Tháng 3 - 2013)
N.N.D
Nhận xét
Tinh thần phụ vụ sớm trưa coi thường.
Ngại gì một nắng hai sương
Ngại gì vất vả cung đường gần xa.
Anh em như thể một nhà
Đảng viên hồi ấy MỚI là ĐẢNG VIÊN.