3644. Việt Nam và Trung Quốc
Việt Nam & Trung Quốc
Nguyễn Hưng Quốc
TTHN/Thứ Ba, ngày 01/12/2015
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình bắt tay Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang tại Sảnh đường Nhân dân ở Bắc Kinh, ngày 3/9/2015. |
Lâu nay, để
biện hộ cho chính sách nhường nhịn đến nhu nhược trước những hành động xâm lấn
ngang ngược của Trung Quốc, chính phủ Việt Nam thường nêu lên ba lý do chính:
Thứ nhất, về địa lý, Việt Nam nằm cạnh Trung Quốc nên ít nhiều phải chịu đựng
Trung Quốc để có được hoà bình; thứ hai, về ý thức hệ, Việt Nam và Trung Quốc
đều theo chủ nghĩa xã hội, và do đó, đều là “đồng chí” của nhau; và thứ ba, về
lịch sử, Việt Nam từng chịu ơn Trung Quốc rất nhiều trong hai cuộc chiến tranh
(chống Pháp, 1949-54, và chiến tranh Nam Bắc, 1954-75) trước đây.
Những sự biện
hộ ấy liệu có sức thuyết phục?
Theo tôi thì
không.
Trước hết,
không ai phủ nhận Việt Nam
vốn có hơn 1000 cây số chung biên giới với Trung Quốc, do đó, không thể không
chịu ảnh hưởng của Trung Quốc. Tuy nhiên ở đây có hai điều nên nhớ: Một, ngày
xưa, cha ông chúng ta cũng từng chung biên giới với Trung Quốc nhưng vẫn giữ
được độc lập và chủ quyền của quốc gia. Không kể một ngàn năm Bắc thuộc, chỉ
tính từ ngày độc lập (thế kỷ thứ 10), Trung Quốc từng âm mưu thôn tính Việt Nam
gần cả chục lần, nhưng tất cả đều bị đánh bại. Hai, không phải nước nào gần
Trung Quốc cũng đều cam chịu những sự ngang ngược của Trung Quốc. Đất rộng,
ngoài Việt Nam, Trung Quốc có chung biên giới với 13 quốc gia khác, trong đó, trừ
hai nước lớn là Nga và Ấn Độ, tất cả các nước khác, nhỏ hơn, vẫn giữ được vị
thế độc lập với Trung Quốc. Tấm gương rõ nhất là Miến Điện, nước có hơn 2000
cây số chung biên giới với Trung Quốc, từng chịu nhiều ảnh hưởng của Trung
Quốc, nhưng mấy năm gần đây, vẫn thoát khỏi quỹ đạo của Trung Quốc để bắt đầu
dân chủ hoá. Ngay cả Bắc Hàn, nước có đường biên giới dài nhất với Trung Quốc,
lệ thuộc Trung Quốc rất nhiều về kinh tế, vẫn giữ được ít nhiều sự độc lập với
Trung Quốc về phương diện chính trị. Bởi vậy, sự gần gũi về phương diện địa lý
không hề là yếu tố tất yếu dẫn đến sự lệ thuộc.
Thứ hai, việc
hai quốc gia cùng theo chủ nghĩa xã hội không bảo đảm hoà bình và tôn trọng chủ
quyền của nhau. Trước đây, các quốc gia theo chế độ xã hội chủ nghĩa, kể cả hai
nước đứng đầu là Trung Quốc và Liên Xô, cũng thường xuyên xung đột, có khi là
xung đột vũ trang, với nhau. Hai cuộc chiến tranh gần đây nhất của Việt Nam cũng là hai
cuộc chiến tranh với hai nước xã hội chủ nghĩa: Campuchia (1978) và Trung Quốc
(1979). Trong cuốn Imagined Communities: Reflections on the Origins and Spread
of Nationalism (1983), Benedict Anderson cho hai cuộc chiến tranh ấy là bằng
chứng rõ nhất cho thấy, đối với mọi quốc gia, quyền lợi dân tộc quan trọng hơn
hẳn vấn đề ý thức hệ. Hầu hết các nhà lãnh đạo Việt Nam hiện nay đều có kinh nghiệm
trực tiếp về hai cuộc chiến tranh ấy, họ không thể không biết điều đó. Hơn nữa,
hầu như ai cũng biết, cái gọi là chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam và Trung Quốc
hiện nay, thật ra, chỉ là một chiêu bài nhằm nguỵ trang một chế độ độc tài toàn
trị mà thôi. Nó không còn là những niềm tin thực sự để người ta, vì nó, bỏ qua
những mâu thuẫn về quyền lợi với nhau.
Thứ ba, về
chuyện ân nghĩa. Quả thật, từ năm 1950 đến 1975, Trung Quốc từng giúp đỡ Bắc
Việt rất nhiều. Họ không những cung cấp vũ khí, quân trang, quân dụng mà còn
cung cấp cả thực phẩm cho dân chúng và bộ đội miền Bắc. Họ đưa phi công sang
Việt Nam để huấn luyện các phi công Việt Nam. Trong vòng mấy năm, từ 1965 đến
1969, họ còn đưa cả mấy trăm ngàn kỹ sư và công nhân sang để giúp Việt Nam xây dựng cả
trăm cây số đường sắt, xây dựng cả hàng chục chiếc cầu và đường hầm, v.v… Theo
thoả ước giữa giới lãnh đạo hai bên, nếu lính Mỹ chỉ giúp quân đội miền Nam
chống lại các cuộc tấn công của miền Bắc, Trung Quốc chỉ giữ vai trò là hậu
phương của miền Bắc, chủ yếu là cung cấp toàn bộ những gì miền Bắc cần để tiến
hành chiến tranh. Nếu Mỹ dùng hải quân và không quân để tấn công miền Bắc,
Trung Quốc cũng sẽ đưa hải quân và không quân sang Việt Nam . Nếu Mỹ xua
quân sang đánh chiếm miền Bắc, Trung Quốc cũng sẽ đưa bộ binh sang để trực tiếp
đối đầu với Mỹ. Nói chung, Trung Quốc xem cuộc chiến tranh ở Việt Nam như là
cuộc chiến tranh của chính họ. Có thể nói, nếu không có những sự trợ giúp tích
cực của Trung Quốc, Việt Nam
(hiểu theo nghĩa là miền Bắc) sẽ không có Điện Biên Phủ và ngày 30 tháng Tư
1975. Giới lãnh đạo cộng sản biết ơn Trung Quốc kể cũng phải.
Tuy nhiên,
quan hệ chính trị giữa hai quốc gia khác quan hệ ân tình giữa các cá nhân trong
đời thường. Trong quan hệ liên cá nhân, người ta giúp đỡ nhau có khi chỉ vì
lòng tốt. Trong quan hệ liên quốc gia, mọi sự giúp đỡ đều xuất phát từ quyền
lợi. Nói cách khác, Trung Quốc giúp miền Bắc chủ yếu là vì chính họ hơn là vì
miền Bắc. Theo Chen Jian, trong bài “China’s Involvement in the Vietnam War,
1964-69” (đăng trên The China Quarterly, số 142, 1995), lý do khiến Trung Quốc
nhiệt tình giúp miền Bắc có thể tóm gọn vào ba điểm chính:
Một là, sau
sự thất bại của chiến dịch Đại nhảy vọt vào cuối thập niên 1950, uy tín của Mao
Trạch Đông xuống thấp. Để củng cố lại quyền lực của mình, Mao muốn đóng vai trò
một người kiên quyết chống lại chủ nghĩa đế quốc và người thúc đẩy cuộc cách
mạng vô sản đến cùng qua việc ủng hộ cuộc chiến tranh “chống chủ nghĩa thực dân
mới” ở Việt Nam. Qua động thái ấy, ông cũng đồng thời phê phán một số nhân vật
lãnh đạo trong đảng, như Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, là theo chủ nghĩa xét
lại và muốn hoà hoãn với Mỹ.
Hai là, qua
việc giúp đỡ Việt Nam ,
Trung Quốc muốn tranh giành ảnh hưởng với Liên Xô. Tuy là cùng theo chủ nghĩa
xã hội, quan hệ giữa Trung Quốc và Liên Xô từ giữa thập niên 1950, kể từ sau
đại hội đảng lần thứ 20 của đảng Cộng sản Liên Xô, càng ngày càng căng thẳng.
Dưới mắt Mao Trạch Đông, việc phê phán Stalin của Nikita Khrushchev là một hành
động “xét lại”, nhằm tái phục hồi chủ nghĩa tư bản ở Nga. Sang đầu thập niên
1960, hai bên công kích nhau kịch liệt. Qua việc giúp đỡ miền Bắc, Trung Quốc
nhắm đến hai điều: lôi kéo miền Bắc vào quỹ đạo của Trung Quốc và chứng minh
cho Liên Xô và cả thế giới thấy Trung Quốc mới thực sự là cộng sản với chủ
trương cách mạng không ngừng.
Ba là, cũng
qua việc giúp đỡ miền Bắc, Trung Quốc muốn đóng vai người lãnh đạo của khối xã
hội chủ nghĩa trong công cuộc chống lại “đế quốc” Mỹ ở châu Á, châu Phi và châu
Mỹ Latinh. Họ muốn chuyển trục của chủ nghĩa xã hội từ Moscow sang Bắc Kinh. Họ cũng muốn xuất khẩu
học thuyết lấy nông thôn bao vây thành thị trong sách lược chiến tranh của Mao
Trạch Đông sang Việt Nam ,
và từ đó, đến các nước khác.
Tôi muốn thêm
một lý do này nữa: Trung Quốc bảo vệ miền Bắc để bảo vệ biên giới phía Nam của Trung
Quốc. Điều Trung Quốc sợ nhất là các chế độ được Mỹ ủng hộ tiến sát đến biên
giới nước mình. Đó là lý do tại sao Trung Quốc tung quân ra bảo vệ Bắc Triều
Tiên trong cuộc chiến tranh kéo dài ba năm với Nam Triều Tiên vào đầu thập niên
1950. Trung Quốc giúp miền Bắc tấn công miền Nam Việt Nam cũng cùng
một lý do.
Nói một cách
tóm tắt, việc Trung Quốc tận lực giúp miền Bắc trong cuộc chiến chống lại miền Nam chủ yếu
xuất phát từ quyền lợi của chính Trung Quốc. Đó không phải là một ân nghĩa để
khiến Việt Nam bây giờ phải
nhường nhịn trước những hành động lấn chiếm hay gây hấn ngang ngược của Trung
Quốc trên biển và đảo của Việt Nam .
Hơn nữa, ngay cả đó là ân nghĩa thật, không ai có quyền đem độc lập và chủ
quyền quốc gia để đền đáp.
Nguyễn Hưng
Quốc/(Blog VOA)/TTHN
Nhận xét