3615. Quan hệ Mỹ - Việt và chuyến thăm của ông Trọng
Quan
hệ Mỹ - Việt và chuyến thăm của ông Trọng
BBC/ 6 tháng 7 2015
Ông Trọng, người mới tiếp Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Ashton Carter hồi tháng Sáu, sẽ vào Nhà Trắng hôm 7/7 |
Vào ngày 7/7, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng
sẽ có chuyến thăm chưa từng có tới Hoa Kỳ.
Mặc
dù ông Trọng không trực tiếp kiểm soát chính quyền, khả năng đưa ra đường lối
của Đảng Cộng sản (ĐCS) là rất lớn.
Ông
Trọng là người bị giằng xé giữa quá khứ và tương lai.
Hai
mươi năm sau khi quan hệ ngoại giao được tái lập, nhiều người trong ĐCS vẫn
nghi ngờ ý định của Hoa Kỳ trong lúc người dân Việt Nam coi quan hệ với Hoa Kỳ là quan
trọng đối với tăng trưởng kinh tế và an ninh.
Dù
Chủ tịch Trương Tấn Sang đã gặp Tổng thống Obama ở Nhà Trắng hồi tháng Bảy năm
2013, đây là lần đầu tiên Tổng Bí thư ĐCS gặp Tổng thống Hoa Kỳ.
Trong
nhiều năm qua, trở ngại là vấn đề nghi thức: ông Trọng là lãnh đạo đảng, không
phải nguyên thủ quốc gia khiến người ta kêu gọi thống nhất hai vị trí giống như
ở Trung Quốc. Nhưng Việt Nam
tự hào về lãnh đạo tập thể và đã không thay đổi.
Nhưng
hai nước hiểu rằng thắt chặt quan hệ là quá quan trọng và không thể để vấn đề
nghi thức cản trở.
'Không đình đám'
Chuyến
đi của ông Trọng được xem là không đình đám và ít lễ nghi. Nhưng một loạt ủy
viên cao cấp của Bộ Chính trị đã có những chuyến thăm thầm lặng nhưng rất xây
dựng tới Washington .
Mối
quan hệ đang được vun đắp tại những cấp cao nhất và trong mọi lĩnh vực bao gồm
quốc phòng, thực thi luật pháp, thương mại và đầu tư.
Việt
Nam bước đi thận trọng với Biên bản Ghi nhớ hồi năm 2011 về hợp tác quốc phòng
và Hoa Kỳ đã có sự kiên nhẫn hiếm thấy do ý thức được thực tế chiến lược của Hà
Nội. Hai bên đã có được sự tin cậy và giờ đang thắt chặt quan hệ an ninh.
Việc
bỏ một phần cấm vận vũ khí hồi năm 2014 là bước phát triển quan trọng dù chủ
yếu mang tính biểu tượng.
Ông
Trọng sẽ kêu gọi bỏ toàn bộ cấm vận nhưng chuyện bỏ toàn bộ cấm vận cũng sẽ
không làm thay đổi căn bản quan hệ hai bên.
Nga
và Ấn Độ sẽ vẫn là những nước cung cấp vũ khí hàng đầu cho Việt Nam ngay cả khi Việt Nam sản xuất nhiều vũ khí theo giấy
phép hơn.
Hoa
Kỳ có thể lấp đi những lỗ hổng, chẳng hạn các vũ khí chống tàu ngầm.
Hoa
Kỳ muốn có thêm những chuyến cập cảng [cho tàu quân sự], nhiều hơn so với mức
một năm một lần hai bên đã đồng ý hồi năm 2011.
Hai
bên cũng đã có những cách để hợp tác nhiều hơn nhưng ít có khả năng Việt Nam cho phép
Hoa Kỳ vào Cảng Cam Ranh.
Hoa
Kỳ còn muốn triển khai trước các trang thiết bị cứu trợ, cứu nạn như họ đã làm
ở Thái Lan.
Ngoài
ra Hoa Kỳ sẽ thúc đẩy để có thêm tập trận hải quân song phương và đa phương với
Việt Nam và đây cũng là điều quan trọng với Việt Nam vốn tăng cường đáng kể hải
quân nhưng kinh nghiệm, học thuyết và đào tạo còn hạn chế.
Yếu tố Trung Quốc
Hai
bên xích lại gần nhau hơn do sự táo bạo của Trung Quốc ở Biển Đông.
Dù
Hoa Kỳ không có quan điểm chính thức về chủ quyền biển đảo, Washington
chia sẻ sự hoảng hốt của Việt Nam
trước tốc độ và quy mô xây dựng bảy đảo mới của Trung Quốc.
Nhưng
hai bên lại có khác biệt liên quan tới ý nghĩa chiến lược.
Hoa
Kỳ quan tâm tới tự do hàng hải, không chỉ chuyện hàng hóa trị giá 5.000 tỷ đi
qua vùng biển đó, mà còn quyền ra vào hải phận của hải quân.
Hoa
Kỳ coi việc xây dựng phi trường ở Hoàng Sa và Đá Chữ Thập là nhằm để có khả
năng thiết lập vùng nhận dạng phòng không.
Cuối
cùng, Hoa Kỳ lo ngại Trung Quốc toan cản Hoa Kỳ vào Biển Đông để triển khai tàu
ngầm mang vũ khí hạt nhân.
Hà
Nội có quan ngại cấp bách hơn: Họ cho rằng Trung Quốc đang tăng cường khả năng
để ngăn chặn họ khai thác tài nguyên tự nhiên cũng như chặn đường tới 28 đảo và
rặng đá.
Nếu
Trung Quốc ngăn chặn Việt Nam
tiếp tế cho các cơ sở [trên biển] của họ thì liệu Hoa Kỳ có coi đó là vi phạm
tự do hàng hải và như vậy là đe dọa tới lợi ích chiến lược của Hoa Kỳ?
Dù
quan hệ song phương đã được cải thiện nhiều so với hồi năm 2014 khi Trung Quốc
đặt giàn khoan lớn nhất của họ HY981 trong thềm lục địa của Việt Nam một cách
khiêu khích, Hà Nội ý thức được rằng Trung Quốc vẫn còn nhiều công cụ để sử
dụng nếu như họ muốn đẩy căng thẳng lên cao hoặc thực thi tuyên bố chủ quyền.
Những
công cụ này bao gồm sức mạnh quân sự, lực lượng tuần duyên lớn nhất trong vùng,
các đội tàu đánh cá và các tàu khai thác dầu.
Việc
Trung Quốc đặt giàn khoan HY981 gần với biên giới biển của Việt Nam hồi tháng
Sáu năm 2015 là nhằm để gửi tín hiệu tới Hà Nội rằng quan hệ được nâng cao giữa
Hà Nội và Washington không thể cản được Trung Quốc theo đuổi các quyền lợi quốc
gia.
'Xoay trục chiến lược'
Cả
chính quyền và người dân Việt Nam
đều xem Hoa Kỳ như lực cân bằng quan trọng đối với Trung Quốc. Nhưng Hà Nội
muốn có đảm bảo rằng sự xoay trục chiến lược không chỉ là chính sách nhất thời
của một tổng thống sắp hết nhiệm kỳ mà là chính sách sẽ được các chính quyền
tương lai theo đuổi.
Và
Hà Nội cũng nhấn mạnh lại rằng cốt lõi của chính sách an ninh của họ vẫn là đa
phương với quan hệ gần gũi với Ấn Độ, Nga, ASEAN, Nhật Bản, cũng như Hoa Kỳ.
Về
mặt kinh tế, có rất nhiều liên hệ quan trọng. Việt Nam đã trở thành nước ASEAn xuất
khẩu nhiều nhất vào Hoa Kỳ và có thặng dư thương mại.
Dù
thương mại song phương với Hoa Kỳ vẫn ở dưới mức 50 tỷ kim ngạch thương mại
Việt - Trung, nó có ý nghĩa quan trọng hơn nhiều với nền kinh tế Việt Nam .
Trung
Quốc có thâm hụt thương mại đáng kể với Việt Nam và hàng hóa rẻ của họ tràn ngập
thị trường trong khi họ nhập khẩu các nguyên liệu thô như bauxite khiến dư luận
bất bình vì lo ngại ảnh hưởng tới môi trường.
Đầu
tư của Trung Quốc vào Việt Nam
cũng mang tính chính trị và gây lo ngại về an toàn, chất lượng cũng như số
lượng lớn công nhân Trung Quốc vào Việt Nam .
Việt
Nam
thu hút được nhiều đầu tư trực tiếp mang lại giá trị gia tăng nhiều hơn từ Hoa
Kỳ, Nhật Bản và các công ty phương Tây.
Trong
một khảo sát gần đây của Pew, 69% người Việt Nam được hỏi nói có quan hệ thương
mại với Mỹ quan trọng hơn trong khi chỉ có 18% nói quan hệ thương mại với Trung
Quốc quan trọng hơn
Không
nước nào phải thay đổi nhiều để tham gia Hiệp ước Đối tác Xuyên Thái Bình Dương
TPP như Việt Nam ,
bao gồm giảm các lợi thế đối với doanh nghiệp nhà nước.
Điều
này cũng cho phép các nhà cải cách Việt Nam thúc đẩy những cải cách cần
thiết, chấm dứt những bảo hộ thiếu hiệu quả vốn ngăn cản sự phát triển.
Theo
khảo sát của Pew, 89% người Việt Nam nói tư cách thành viên TPP là điều tốt,
mức ủng hộ cao nhất trên thế giới.Tuy nhiên cảm trở lớn nhất đối với cải cách
doanh nghiệp nhà nước và tư nhân hóa vẫn là các quan chức chính quyền vốn lo
ngại rằng cải cách thị trường sẽ giảm khả năng kiếm lợi của họ.
Vấn đề nhân quyền và di sản cuộc chiến
Nhân
quyền vẫn là vấn đề gai góc nhất trong quan hệ song phương.
Những
người bảo thủ trong ĐCS tin rằng Hoa Kỳ dùng vấn đề nhân quyền để làm phương
hại sự độc quyền quyền lực của ĐCS.
Hoa
Kỳ xem chính quyền Việt Nam như đối tác chính trong vùng nhưng cũng kiên quyết
đề nghị Việt Nam tuân thủ các nghĩa vụ quốc tế về nhân quyền, nhất là tôn trọng
luật pháp, quyền tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận và tự do hội họp.
Hoa
Kỳ hài lòng rằng trong năm 2015, chính quyền Việt Nam chỉ bắt một nhà bất đồng chính
kiến dù nhiều người khác đã bị đánh đập, sách nhiễu và trấn áp.
Dù
Hà Nội đã trả tự do cho luật sư bất đồng chính kiến Lê Quốc Quân, việc họ sử
dụng cáo buộc "trốn thuế" cho thấy đây là công cụ mới để tấn công các
blogger và những người khác quan điểm.
Mặc
dù còn nhiều vấn đề nhân quyền, Hoa Kỳ cần để ý tới những cải cách từ từ nhưng
có ý nghĩa về quyền con người.
Điều
này bao gồm kêu gọi của Chủ tịch Sang về chấm dứt bức cung và ép cung của cảnh
sát, điều khiến cho một số cảnh sát và quan tòa bị truy tố.
Chính
quyền cũng đã thôi trấn áp mạng xã hội và vô hình chung chấp nhận nó và mạng xã
hội giờ là nguồn tin chủ yếu của nhiều người. Đây cũng là điểm quan trọng nữa.
Không
gian cho bất đồng chính kiến và chia sẻ thông tin vẫn còn rất hạn chế nhưng nó
cũng chưa bao giờ tự do như hiện nay.
Các
nhà lãnh đạo dần nhận ra rằng kiểm soát internet đe dọa ngành công nghiệp phần
mềm và công nghệ thông tin.
Cũng
vậy, chuyện công nhân đã đòi lại được quyền lợi sau biểu tình chưa từng có hồi
tháng Ba, tháng Tư năm 2015 sẽ càng làm cho đình công thêm nhiều.
Hoa
Kỳ phải nhận thấy rằng dù Việt Nam
vẫn là quốc gia độc đảng vốn không chấp nhận bất đồng, giới lãnh đạo đang ngày
càng thích ứng với người dân hơn.
Điều
này càng đúng với sự chuyển đổi lãnh đạo quan trọng dự kiến diễn ra ở Đại hội
Đảng lần thứ 12 vào năm 2016 khi các quan chức trẻ hơn, được đào tạo tốt hơn,
hiểu truyền thông và internet hơn bước vào các vị trí lãnh đạo.
Việt
Nam
đang thay đổi cho dù họ vẫn có những đợt trấn áp khi này khi khác và điều này
cho thấy còn có nhiều thứ cần thay đổi.
Việt
Nam
vẫn là một trong các quốc gia hàng đầu về bỏ tù nhà báo và blogger.
Chuyện
đóng cửa cả một tờ báo vì quá hăng hái đưa tin về tham nhũng của chính quyền đi
ngược lại cam kết diệt trừ tham nhũng của chính phủ cho dù tham nhũng được xem
là đe dọa sự tồn vong của ĐCS.
Quan
hệ song phương thể hiện mạnh mẽ nhất trong giao lưu giữa nhân dân hai nước.
Trong năm 2013-2014 có hơn 16.500 sinh viên Việt Nam học tại các đại học Hoa
Kỳ, chiếm 35% tổng sinh viên từ ASEAN và bằng tổng số sinh viên từ Philippines,
Thái Lan và Malaysia cộng lại.
Sự
trở lại của Việt kiều trong vai các doanh gia, nhà đầu tư và những người quản
lý có ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế.
Và
cuối cùng là các vấn đề tồn tại từ cuộc chiến. Tới nay Hoa Kỳ đã cung cấp 130
triệu đô la để tẩy rửa Tác nhân Cam .
Nhưng
vẫn chưa có ngân sách dành riêng hay đủ để tẩy rửa các khu khác ngoài sân bay
Đà Nẵng như sân bay Biên Hòa hay [trợ giúp] 4,5 triệu người bị phơi nhiễm.
Hoa
Kỳ nhất mực coi đây là vấn đề nhân đạo, không phải là bồi thường chiến tranh.
Nhưng
nếu Hoa Kỳ muốn đẩy mạnh quan hệ, họ phải đối mặt với trách nhiệm bằng cách
giải quyết quá khứ.
Nhận xét