3596. Tư tưởng, ngôn luận không phải là đối tượng của giám định tư pháp
Tư tưởng, ngôn luận không phải là đối tượng của giám định tư pháp
1. Pháp
luật khẳng định công dân có quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận:
- Công
ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị 1966, Việt Nam tham gia năm 1982, quy định:
“Khoản
1, Điều 18:
1. Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo. Quyền này bao gồm quyền tự do theo một tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng qua sự thờ phụng, hành đạo, nghi lễ hay giảng dạy, hoặc riêng tư hoặc với người khác, tại nơi công cộng hay tại nhà riêng.”
1. Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo. Quyền này bao gồm quyền tự do theo một tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng qua sự thờ phụng, hành đạo, nghi lễ hay giảng dạy, hoặc riêng tư hoặc với người khác, tại nơi công cộng hay tại nhà riêng.”
“Khoản
1, 2 Điều 19:
1.
Mọi người đều có quyền giữ vững quan niệm mà không bị ai can thiệp.
2.
Mọi người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền tự do
tìm kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự
hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông
khác, không kể biên giới quốc gia.”
- Tuyên
ngôn nhân quyền Liên hợp quốc 1948, quy định:
“Điều
19: Ai cũng có quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan
điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm của
mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi
phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia.”
- Hiến
pháp năm 2013, điều 25, quy định:
“Điều
25.
Công
dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập
hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.”
Vì vậy,
tư tưởng, ngôn luận là quyền tự do của con người, quyền của công dân nó không
phải là đối tượng của bất cứ hoạt động giám định nào.
2. Đối
tượng của giám định tư pháp:
- Luật
giám định tư pháp 2012:
+ Khoản
1 điều 2, quy định:
“Giám
định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến thức, phương tiện,
phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn
đề có liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự,
giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám
định theo quy định của Luật này.”
+ Khoản
1 điều 3 “Nguyên tắc thực hiện giám định tư pháp”, quy định:
“Tuân
thủ pháp luật, tuân theo quy chuẩn chuyên môn.”
+ Khoản
2 điều 41 “Nhiệm vụ, quyền hạn của bộ, cơ quan ngang bộ quản lý chuyên môn về
lĩnh vực giám định tư pháp”, quy định:
“Ban
hành quy chuẩn giám định tư pháp hoặc hướng dẫn áp dụng quy chuẩn chuyên môn
cho hoạt động giám định tư pháp theo yêu cầu và đặc thù của lĩnh vực giám định
thuộc thẩm quyền quản lý.”
- Thông
tư số 24/2013/TT-BTTTT ngày 27/12/2013 của Bộ Thông tin và Truyền thông:
+ Khoản
1 điều 10 “Áp dụng quy chuẩn chuyên môn cho hoạt động giám định tư pháp;”, quy
định:
“Hoạt
động giám định tư pháp trong lĩnh vực thông tin và truyền thông được thực hiện
căn cứ vào quy chuẩn chuyên môn trong lĩnh vực thông tin và truyền thông hiện
hành (bao gồm Tiêu chuẩn quốc gia và Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia trong lĩnh vực
thông tin và truyền thông) và các văn bản pháp luật có liên quan đến nội dung
cần giám định.”
Như
vậy, giám định tư pháp nói chung là việc sử dụng các kiến thức, phương tiện, phương
pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn để xác lập chứng
cứ vật chất liên quan nhằm mục đích phục vụ giải quyết vụ án. Nói riêng về giám
định tư pháp trong lĩnh vực thông tin và truyền thông là áp dụng Tiêu chuẩn
quốc gia, Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia trong lĩnh vực thông tin và truyền thông
để xác định, kết luận các chứng cứ được yêu cầu trưng cầu giám định để phục vụ
việc giải quyết vụ án. Đối tượng của giám định tư pháp nói chung và trong trong
lĩnh vực thông tin và truyền thông nói riêng phải là những chứng cứ vật chất.
Việc
phát biểu quan điểm; bao gồm tìm kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức và ý
kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng
mọi phương tiện truyền thông khác (internet…) là quyền tự do của con người. Nội
dung của các tư tưởng, tin tức là những giá trị phi vật chất, không thể đo
lường được bằng một tiêu chuẩn kỹ thuật, phương tiện vật chất hay một chuyên
môn nào. Nói cách khác tư tưởng, tin tức không phải là đối tượng của giám định
tư pháp và không thể sử dụng làm chứng cứ cho việc giải quyết một vụ án.
Hà Nội,
ngày 17/11/2014.
H.H.S.
Nhận xét