4357. Thói hư tật xấu người Việt - Kỳ 1

Thói hư tật xấu người Việt - Kỳ 1

Vương Trí Nhàn

PNTB: Tự biết được thói xấu của mình là điều rất tốt. Để mà tránh. Để mà tốt hơn. Bài của NV Vương Trí Nhàn viết về thói xấu người Việt, tuy dài mà hay.
I - Giả dối lừa lọc

Khi khái quát tính dân tộc của người Trung Quốc, trong cuốn Ẩm băng thất văn tập (1904), nhà tư tưởng cận đại Lương Khải Siêu đã nhấn mạnh nhiều nhược điểm như thiếu tư tưởng độc lập, thiếu ý thức công cộng hoặc thói quen làm đầy tớ, chỉ biết chăm sóc lợi riêng. Ông còn cho rằng, đồng bào mình thường võ đoán giả dối, đã ngu muội nhút nhát song lại thích lừa đảo.

Tôi đọc trích dẫn trên từ cuốn Tìm hiểu văn hóa người Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc của Kim Văn Học (bản dịch tiếng việt của NXB VH-TT, 2004). Ông này là một giáo sư người Trung Quốc, dạy học ở Nhật. Trong những cuốn sách sưu tầm tài liệu về dân tộc tính của người Trung Quốc, in ra ở các nhà xuất bản ở Bắc Kinh, Thượng Hải, cũng thường thấy trích dẫn lời ông.

Bệnh lừa đảo được bản thân Kim Văn Học đưa lên thành thói xấu số một trong cuốn sách mang tên Chí hướng phản văn hóa của người Trung Quốc (cuốn này in cả ở Hàn Quốc và Nhật Bản).

Cũng nói tới căn bệnh nan  ý này, ngoài những trí thức trong nước, Kim Văn Học còn dẫn ra ý kiến tương tự của người nước ngoài như A.H.Smith, hoặc M.Weber – nhà xã hội học cỡ số một thế giới. Dù chưa tới Trung Quốc bao giờ, M. Weber cũng nói một cách quyết đoán: “Người Trung Quốc là một dân tộc không thành thật nhất trên thế giới”.

Tôi dẫn ra những dẫn chứng trên để cùng hiểu là chúng ta không việc gì phải khó chịu khi nghe nói rằng thói giả dối đổ bóng lên mọi mối quan hệ giữa người với người trong xã hội Việt Nam.

Giả dối, điêu ngoa, phỉnh phờ, bịa đặt, lường gạt, bố vờ, điêu xảo, gian lận, lừa lọc, bịp bợm, xạo, xảo trá, man trá, trí trá… những từ ngữ đó đã miêu tả đầy đủ mọi cung bậc của một căn bệnh vốn có sức lây lan rất nhanh và hàng ngày trình ra muôn vàn bộ mặt kỳ lạ trong cuộc sống quanh ta.

Nhân vật Cuội trong Thằng Cuội ngồi gốc cây đa mở đầu cho hàng loạt nhân vật lang thang trong văn học dân gian. Điều đáng nói là ở đây đã gặp sự có mặt thường xuyên của dối trá. Cuội nói dối như một thói quen bẩm sinh. Bố mẹ mất sớm, phải ở với cậu mợ, Cuội thực thi cách sống dối trá ngay trong gia đình. Sự lừa lọc cứ thế đi từ hồn nhiên sang mục đích vụ lợi, cuối cùng biến thành tội ác (dẫn đến cái chết của cả cậu lẫn mợ).

E.Nordemann, người Pháp đã ghi lại câu chuyện về Cuội như thế trong sách Quảng tập viêm văn, một thứ văn tuyển đầu tiên của văn học Việt Nam in ra từ 1898 (bản dịch tiếng Việt 2006). Trong phần từ vựng về văn hóa Việt Nam, ông nói rõ sự bóc lột quá đáng của nhà nước và tình trạng rối loạn của xã hội đã là những nguyên nhân dẫn đến một số thói xấu thường trực. Theo lời ông, chúng in dấu vào đặc tính của dòng giống. Mà một khuynh hướng có tính bản năng về nói dối, về giấu giếm và cả ăn cắp, là những thói xấu được Nordemann nêu lên đầu tiên.

Trong một bài viết in trên báo Văn Nghệ số ra 10/01/1974, một nhà báo mỹ là Lady Borton kể rằng lúc đầu đến Việt Nam, bà có phần choáng ngợp trước một xã hội lành mạnh, mọi người rất ham đọc sách, rõ ra một xã hội có giáo dục. Còn giờ đây, bà được chứng kiến muôn điều tồi tệ. Một lần, tại một trong những trường đại học nổi tiếng nhất Hà Nội, bà dự buổi kiểm tra ở một lớp tiếng Pháp. Mọi sinh viên còn rất trẻ, người nào cũng lanh lợi. Thế mà lúc làm bài thi, chỉ thấy họ trổ ra mọi mánh lới man trá. Trong một giờ bà đã nhìn thấy những mánh lới nhiều hơn cả quãng đời trước đó của bà cộng lại, Lady Borton xem đây như một điều khủng khiếp.

Và khủng khiếp hơn, nhà báo Mỹ ghi tiếp, là hôm đó có một ông thầy tiếng Pháp trông lớp, ông ta ngồi đó suốt thời gian thi và chẳng nói gì. Cảm thấy không thể hiểu được nữa, Lady Borton chỉ có cách đạp vội xe về văn phòng, mặt mũi nhợt nhạt.

Vậy ta có thể bảo đặc tính lớn nhất của sự gian dối ở người Việt là tình trạng phổ biến của nó? Có lẽ đành phải nói vậy!.

Còn như lý do khiến cho sự gian dối đó kéo dài, một phần là vì người ta thường nương nhẹ với mình và luôn luôn tìm ra lý do để biện hộ.

Câu chuyện Trí khôn của ta đây là một trong những câu truyện dân gian phổ biến được đưa vào Quốc văn giáo khoa thư, dạy cho học sinh lớp dự bị, thời Pháp thuộc. Nhưng ta hãy để ý chính là ở đây còn người đã nói dối con cọp để tự chứng tỏ sự khôn ngoan của mình. Trí khôn được định nghĩa không phải là sự hiểu biết, sự đào sâu suy nghĩ mà là sự gian dối.
II - Ai cũng như ai, chen cạnh mà sống

“Cơn bão hôi bia” tại Biên Hòa, Đồng Nai vừa qua làm niềm tin của chúng ta bị rớt xuống đất vỡ vụn theo những chai bia bị ăn cướp. Đó không còn là giọt nước làm tràn ly, mà là chất xúc tác để chúng ta nhìn nhận rõ hơn, xã hội ta đã lan tràn những biểu hiện xấu xí: tham lam, vô cảm, ti tiện, nhỏ mọn, tham nhũng vặt, ăn cướp lớn... Nó làm người ta nói đến một sự khủng hoảng niềm tin với đạo đức xã hội, khiến chúng ta phải nhìn lại những thói hư tật xấu tràn lan của người Việt Nam.

Nhưng xưa nay, chúng ta không thiếu tinh thần tự răn mình để sửa mình. Nhân đây Thethaovanhoa.vn xin giới thiệu lại loạt bài "mổ xẻ" những thói hư tật xấu người Việt của nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn. 

Xin giới thiệu đến quý vị bài viết Ai cũng như ai, chen cạnh mà sống mở đầu cho loạt bài này:

1. Đầu năm rồi, một người bạn tôi kể lên Tây Nguyên, thấy có chuyện lạ, những người làm công canh gác cho một trang trại hồn nhiên cho người thoải mái hái trộm cà phê. Họ bảo nhau, chủ cũng là người như mình, tội gì để chủ vượt lên sung sướng hơn mình.

Có thể cái lối cư xử trắng trợn nói trên là hiếm hoi, nhưng cái triết lý “ai cũng như ai”, “cá đối bằng đầu”, “cá mè một lứa” thì mọi người Việt sẵn sàng chia sẻ. Hà Nội bây giờ khá nhiều nhà, nhất là nhà buôn bán, có người giúp việc, tức các Ô-sin. Nhưng không ít trường hợp phục vụ quán xá được ít ngày, các ô-sin là những con người nông thôn không hề có kinh nghiệm buôn bán kia, đã lăm le nhảy ra làm cái việc cạnh tranh ngay với chủ cũ. Bởi người ta nghĩ mình chẳng kém gì đời. Buôn bán hay cai quản sai phái người khác, ai chẳng biết làm. “Cờ đến tay ai người ấy phất”. Cả học hành nữa, thằng này mà được học thì kém chi đời! Trong các làng xóm cũ, sở dĩ ông nọ, ông kia có vai vế chẳng qua giỏi bịp bợm, luồn lách hoặc kéo bè kéo cánh mà leo lên đầu, lên cổ người khác chứ chẳng tài cán gì cả - cái lập luận ấy được nhiều người ưa thích.

Trong một phim truyện, có cảnh một viên tướng bị thua trận trốn chạy trên xe do một nông dân kéo. Chở kèm trên xe có cả vợ viên tướng, và một ít đồ đạc. Ông nông dân vừa kéo xe vừa vác một bu gà trên lưng. Có người xin đi nhờ, viên tướng bảo ông nông dân vứt cái bu gà đi, ông không bằng lòng. 

Ông bảo: “Không có gà, không có trứng, làm sao tướng quân khỏe được?”.
Tức là ông ta cho rằng mình không có nghĩa lý gì so với cái người ngồi trên xe kia. Mình thuộc một loại người khác mà viên tướng thuộc loại người khác. 
Đấy, cố nhiên là một cảnh trong một bộ phim nước ngoài. Phim Trung Quốc, diễn lại cảnh thời Tưởng Giới Thạch.

Chỉ có bên Tàu mới có những người nông dân cam chịu và trong thâm tâm hiểu rằng có một trật tự xã hội nghiệt ngã, mọi người nhất thiết phải theo. Mà cũng chỉ bên Tàu mới có những viên tướng tự tin ở sứ mệnh của mình như vậy. Chứ ở ta, cả hai đều nghĩ ngược lại!.

2. Một nhà xã hội học, ông Đỗ Thái Đồng, nhận xét rằng xã hội Việt Nam thời Trung đại không có quý tộc mà chỉ có quan chức; không có trí thức mà chỉ có những người học hành để đi thi làm quan; không có doanh nhân mà chỉ có người buôn vặt (bài in trong sách Tâm lý người Việt nhìn từ nhiều góc độ, 2000). Một người mang dòng máu quý tộc tức là mặc nhiên cho rằng có sự hơn hẳn của con người mình so với người khác – không ai dám công khai nói lên ý nghĩ đó vì thừa biết đám đông không đồng tình. Nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân trên danh nghĩa bảo là tái lập sự công bằng, nhiều khi chỉ là một cách để người ta khẳng định rằng không có một trật tự nào cả, không làm liều chỉ thiệt.

Ở nhiều nước khác, xã hội giống như một rừng nguyên sinh có cây cao bóng cả, có cả những dây leo. Cỏ mọc lan trên mặt đất cùng với dây leo ủ đất, giữ nước, làm cho cả cánh rừng thành một tổng thể có cấu trúc chặt chẽ và do đó dây leo cũng có ích.

Còn ở ta, suốt trường kỳ lịch sử, một xã hội phân tầng như vậy cũng có nhưng còn ở trong tình trạng yếu ớt. Làm nền cho xã hội là một quan niệm bình đẳng tuyệt đối. Trong các quần thể làng xã, các thành viên chỉ biết đến sự phát triển của chính mình. Một hệ thống giá trị thích hợp không được hình thành, hoặc có hình thành cũng không được mọi người công nhận. Ai cũng như ai, giữa các cá thể chỉ có sự cạnh tranh, nhiều khi là tàn bạo và trắng trợn. Kẻ nào giỏi, kẻ đó thắng và kẻ thắng sẽ có lẽ phải, có chính nghĩa. “Được làm vua, thua làm giặc”.

Xã hội không trưởng thành và phát triển lên được ư? Không sao, miễn tôi không kém ai là được, nhiều người nghĩ vậy!.

Hồ Xuân Hương không phải chỉ nổi tiếng với những câu thơ ỡm ờ nửa thanh nửa tục, mà còn ở lại trong lịch sử với lời giả định: Ví đậy đổi phận làm trai được/ Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.

Câu thơ không chỉ thổ lộ cái uất ức của người phụ nữ mà cái chính là nói lên ý chí của lớp người cùng cực tự an ủi rằng, thả ra chắc mình chẳng thua kém ai.

Nhà văn Kim Lân từng kể một trong những ý nghĩ thúc đẩy ông sáng tác khi mới vào nghề là cái cảm giác: “Ta cũng chẳng kém gì các người”!.

Cái cảm giác đó có thể có ý nghĩa tích cực với nghĩa thúc đẩy một cá nhân lập nên sự nghiệp. Nhưng một xã hội mà gồm toàn những người không chấp nhận một trật tự nào, không công nhận vai trò của học vấn bản lĩnh truyền thống gia tộc… mà chỉ thấy ai cũng như ai chen cạnh mà sống, thì chưa chắc đã tạo được sự tiến hóa cần thiết. Khi đã chẳng còn có sự “phân tầng” thì, theo các nhà sinh học, một quần thể chỉ còn có cấu trúc của một rừng cỏ gianh. Cấu trúc được đơn giản hóa tới mức tối thiểu. Mà một trong những quy luật của thiên nhiên là “bất cứ sự đơn giản hóa hệ thống nào đều dẫn tới sự thắng lợi của những hình thức thấp của đời sống và điều đó làm xấu đi một cách tệ hại cuộc sống của con người”. 
III - Khôn lỏi - Ranh vặt - Tinh tướng

Một người đã sống qua ở Nhật cho biết người Nhật trong khi giao thiệp, nhất là trong khi làm kinh tế cũng có nhiều quái chiêu không thể thương được. Đầu cơ, móc ngoặc, hối lộ, nói chung là đi đường tắt... trò gì cũng có cả.

Nhiều người trong đám dân đi chào mời tiếp thị (gọi là “mizu shobai”), như có bùa mê thuốc lú, làm cho người ta phải xiêu lòng, rồi sau mới biết mình bị lừa.

Bài viết so sánh: “Cái tinh ma thâm độc của họ khác với cách xảo trá ngô nghê hay dối quanh của người Việt, nên lúc đầu rất khó nhận ra”.

Có chút gì đó vừa “vui” vừa buồn khi nghe nhận xét trên đây. “Vui” vì không phải chỉ người Việt thích lừa lọc nhau, thiên hạ cũng xấu chẳng kém gì ta. Mà buồn vì hóa ra người Việt mình rút cục chỉ biết mẹo vặt, chứ không có cái mưu đồ sâu xa, cái thâm trầm như thiên hạ. 

Hơn bù kém, thấy đáng buồn hơn vui. Người bị lừa vừa bật cười vừa bực mình – đến lừa mà cũng vụng dại hớ hênh, thì còn làm được cái gì nên hồn (!).

Người nước ngoài thường nhận xét nói chung người Việt mình thông minh lanh lợi. Nhưng họ cũng thấy ngay sự nhạy cảm nhanh nhẹn trong phản ứng này không dựa trên một sự suy nghĩ chắc chắn mà có gì đó nông nổi vội vã. Trong sự chủ động lại như mang sẵn yếu tố thị động. Bản thân chúng ta không phải không biết điều đó.

Trong tiếng Việt từ “khôn” không hàm ý sâu sắc trong tư duy và uyên bác trong kiến thức, mà ngã sang một sự tính toán lặt vặt dễ gây phản cảm.

Đó là nghĩa của “khôn” trong những câu tục ngữ “khôn ăn người, dại người ăn”, “khôn văn tế, dại văn bia”, “khôn chẳng qua lẽ, khỏe chẳng qua lời”, “khôn sống, mống chết”, “khôn nên quan, gan nên giàu”, “khôn ngoan chẳng lọ thật thà – lường thưng tráo đấu chẳng qua đong đầy”…

Theo từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, “khôn” là khả năng suy xét để một người tìm ra một cách xử sự có lợi nhất, tránh được những gì có hại đến quyền lợi các mặt của anh ta. Khôn lỏi – ranh ma – láu cá… đều là thực dụng và vụ lợi.

Tuy không dùng đến từ khôn, nhưng câu “Ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau” thật đã thâu tóm đủ cái tài tính toán của người mình và minh họa cho định nghĩa nói trên.

Tồn tại trong suốt lịch sử, công thức này đã thành một thứ “chân lý mặc định”, người Việt dùng nó để “minh triết bảo thân” và việc truyền dạy trong các gia đình được xem là hoàn toàn tự nhiên. Không ai mang nó ra phê phán bao giờ. Gặp một người hành động theo nguyên tắc đó, chúng ta hoàn toàn thông cảm, trong bụng hiểu rằng ai cũng phải xử sự thế thôi, trông người khôn ta phải học theo để khi khác áp dụng.

Cả trong truyện kể dân gian lẫn trong chính sử, người xưa còn ghi lại nhiều mưu mẹo vặt của người mình trước sứ Tàu. Nguyễn Văn Tố trong Đại Nam dật sử (1944) kể khi tiếp Tống Cảo, Lê Hoàn cho xua trâu bò của dân ra để dọa, gọi là quan ngưu, không đầy một nghìn nói khoe là mười vạn. Đấy là khi cần khoa trương thế lực. Còn nói tới việc khoe trí khôn, hẳn ai cũng nhớ sự tích Trạng Quỳnh thi vẽ: Quỳnh chấm cả mười đầu ngón tay vào mực để vẽ giun.
Về khoản khôn ngoan ranh vặt thì Trạng Quỳnh là cả một tượng đài vĩnh viễn. Trong danh sách những điển hình của tính cách Việt, nhân vật này bao giờ cũng đứng đầu sổ.

Thời xã hội mới bước sang giai đoạn xã hội hóa, Nguyễn Công Hoan được biết tới như một ngòi bút giàu chất An Nam bậc nhất. Người Việt trong các tác phẩm của ông đôi khi cũng ngớ ngẩn, ngờ nghệch, nhưng phổ biến và được ông diễn tả hơn cả là loại láu cá và rất giỏi biến báo trong đối xử. Như viên tri châu nọ, trong truyện sáu mạng người, sau khi bắn nhầm mấy người dân đi hái thuốc, thì vu cho người ta là giặc khách để báo lên quan trên lấy thưởng. Như gã nhà giàu nọ, có ông chú từ quê lên chơi, muốn đuổi, liền kêu ầm lên mất ví để buộc ông ta phải bỏ về sớm. Và như trường hợp cụ Chánh Bá có đôi giày cũ, nhân đi ăn giỗ, bắt thằng nhỏ vứt béng ra sau vườn, để bắt vạ nhà chủ, buộc người ta mua đền đôi giày mới.

Các nhân vật nông dân của Nguyễn Khải loại như Tuy Kiền cũng nổi tiếng là ranh ma. Trong việc tính toán giành lấy một chút lợi riêng, họ ở vào thế yếu. Luôn luôn họ phải che giấu, lẩn tránh và tìm ra mưu mẹo để tự khẳng định. Họ thường hiện ra vừa đáng yêu, vừa đáng ghét.

So với “khôn lỏi, “ranh vặt”, thì “tinh tướng” có nghĩa hơi khác một chút, nó được dùng để chỉ những người không những đã khôn mà còn muốn phô ra để cho người khác biết. Đọc Ngô Tất Tố hẳn ai cũng nhớ mẩu chuyện Làm no hay là cái ăn trong những ngày nước ngập. Cái việc khoe rằng, mình có sáng kiến chế biến đất ra đủ các loại thức ăn chính là dấu hiệu của một lối xử thế tinh tướng, dù ở đây, người ta thấy ghét thì ít mà tội nghiệp nhiều hơn.
IV - Làm ăn kém nên nghèo, 
bởi nghèo nên xấu tính

Nhiều nhà nghiên cứu nghệ thuật thích viết rằng những người làm tranh Đông Hồ chỉ là những người nông dân lúc rỗi rãi thì vẽ thêm tranh. Mục đích của họ cốt cho người ta thấy nghệ thuật ở Việt Nam “gắn liền với đời sống”. 

Có biết đâu làm thế chỉ là một cách tốt nhất để phô ra một sự thật: trong xã hội ViệtNam, trình độ sống và làm việc là thiếu chuyên nghiệp. Không sớm có sự phân công lao động. Con người nhởn nhơ dông dài ngay trong sự chăm chỉ của mình.

Tình trạng của nghề làm tranh cũng là tình trạng của nghề dệt, nghề đúc đồng, nghề làm muối, nghề làm đồ gốm, cả nghề làm ruộng… Chỗ nào người ta cũng thấy sự ngưng trệ. Kỹ thuật cổ lỗ. Năng suất thấp.

“Cối xay tre, nặng nề quay, từ ngàn đời nay, xay nắm thóc”. Trong lời thuyết minh viết cho phim Cây tre Việt Nam 1995, Thép Mới từng viết một câu văn xuôi mang đầy chất thơ để hằn sâu vào tâm trí của nhiều thế hệ học sinh tiểu học như vậy. Vào những năm 50 của thế kỷ trước, nó gợi một cảm giác về sự nhẫn nại bất khuất kiên cường. Nhưng sang đến thế kỷ 21 này, đọc lại thấy dấu hiệu của một cuộc sống ù lì tăm tối.

Người Việt tự nhủ “Đói cho sạch, rách cho thơm”. Ảo tưởng nhắc lại mãi nghe như có lý. Song khi người ta quá nghèo thì khó lòng giữ được sự tử tế. Chính nhiều người từ xa tới đến đây cũng sớm hiểu điều đó.

Trong cuốn Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài (1688), (bản của NXB Thế giới, 2006) một nhà thám hiểm người Anh là W.Dampirer ghi lại một nhận xét chung: “Cư dân ở đây rất lễ độ và thật thà với người nước ngoài, nhất là những người đến giao dịch và buôn bán. Những kẻ quyền quý thì tỏ ra kiêu căng, hách dịch và tham lam, trong khi đám lính tráng thì hỗn xược”.

Rồi ông ghi thêm: “Cư dân lớp dưới lại hay trộm cắp, làm cho nhà buôn và những người đến giao dịch ở đây bắt buộc phải canh gác cẩn thận về đêm”.

Điều đáng nói là W.Dampirer đã có cách riêng để giải thích hiện tượng này. Trước đó, nhà của người Việt ngay Kẻ Chợ, tức thủ đô, được tác giả mô tả là quá đơn sơ tầm thường. Nhà nhỏ và thấp. Mấy tấm phen che dột nát tạm bợ. Bên trong chia làm nhiều gian, mỗi gian có những cửa sổ để lấy ánh sáng thực chất là những lỗ đục xấu xí. Theo W.Dampirer, nhà cửa như vậy thường làm mồi cho bọn người trộm cắp. Chúng có thể dễ dàng thực hiện mưu đồ đào tường đào từng khoét ngách.

Khó lòng kể hết những dấu ấn mà sự thấp kém về trình độ sản xuất để lại trong tính cách người Việt.

Trước tiên là một tâm lý tự ti, mệt mỏi không thấy hứng thú trong lao động.

Đã nhiều người gặp nhau ở nhận xét là người Việt rất chăm chỉ năng động. Nguyễn Văn Vĩnh tỏ ra tinh nhạy hơn người khi nêu cùng lúc cái tình trạng nước đôi: người Việt vừa cần cù, vừa cho người ta cảm thấy họ coi lao động là bất đắc dĩ, chẳng qua không có cách nào khác nên họ phải chân lấm tay bùn vậy.

Xã hội thiếu đi sự năng động tìm tòi.

Nhà Nho xưa nhiều người kiêm cả thầy lang.

Trong một lần so sánh văn hóa Trung Quốc và Việt Nam, Phan Ngọc nhắc lại cái ý mà nhiều thế hệ nho sĩ truyền miệng với nhau. Đó là một nhận xét của người Tàu: người Việt sống trên cả đống nguyên liệu dùng làm cây thuốc nhưng vẫn chết vì thiếu thuốc.

“Việc lớn thì kinh, việc nhỏ thì khinh, việc bình thường thì không thích”, thái độ người mình với công việc được Nguyễn Tất Thịnh cô lại trong một nhận xét thật gọn ghẽ (Tiền phong, 6/10/2006).

Nhiều nhân vật trong những truyện cười dân gian là những chàng lười. Ca dao hóm hỉnh dựng lại một chân dung, ngày nay ta tưởng là bịa, song thực ra rất sẵn trong nông thôn Việt Nam thời trung đại: “Con cò đậu cọc cầu ao/ Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng/ Chú tôi hay tửu hay trăng / Hay ăn làm biếng, hay nằm ngủ trưa/ Ngày thì ngóng những ngày mưa/ Đêm thì ngóng những đêm thừa trống canh”.

Vốn rất thông minh và nhạy cảm nên không phải là người Việt không biết thực trạng kém cỏi trong công việc làm ăn sản xuất của mình. Nhưng do thiếu sự mỏ đường của trí tuệ nên người ta cảm thấy đó là cả một định mệnh.

Thấy của thiên hạ cái gì cũng hơn mình. Bất lực. Cay đắng. Chán chường.

Một niềm tự ti nằm rất sâu trong tâm lý, mang lại nhiều biến thái: lo học nhưng chỉ học mót, học lỏm; sợ người ta coi thường nên phải tìm cách nhấn mạnh cái riêng, và nhắc đi nhắc lại rằng mình chẳng kém gì mọi người. Sống gồng lên ra vẻ thế nọ thế kia, sẵn sàng giả dối cốt sao khỏi bị mất mặt.

W.Dampirer, trong cuốn sách của mình, còn ghi nhận một điều mà sau này các nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam từ Phan Kế Bính, Đào Duy Anh tới Nguyễn Văn Huyên, Lương Đức Thiệp đều chia sẻ, là thói máu mê cờ bạc của người Việt. Giàu tham việc, thất nghiệp tham ăn, - khi rỗi rãi người ta lao đầu vào cuộc đỏ đen một phần là vì bế tắc trong cuộc sống. Toan tính duy nhất ở đây là ngẫu nhiên tìm được một cơ may giữa đời sống tuyệt vọng…
VTN


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

5044. Màu đỏ Artek

5485. Vì sao nước Đức hùng mạnh? (Kỳ 1)

6272. Kịch tính vụ kit Việt Á ngày càng cao.