3908. VIỆT NAM cảm nhận từ đường phố
VIỆT NAM cảm nhận từ
đường phố
GS Nguyễn Văn Tuấn
Tôi vừa có một chuyến đi gần mấy tháng ở
bên nhà. Đó là một thời gian tương đối dài đối với tôi, một phần là vì công
việc, và một phần khác là nghỉ hè. Chính vì hai việc này mà tôi có dịp đi đây
đó, và có dịp quan sát quê hương – không phải từ phòng máy lạnh, mà từ thực
địa. Tôi e rằng những quan sát và cảm nhận của tôi hơi bi quan. Thú thật, tôi
không thấy một Việt Nam sẽ “tươi sáng”, mà chỉ thấy một đất nước sẽ tiếp tục
tụt hậu và lệ thuộc, nhất là trong bối cảnh cộng đồng kinh tế ASEAN.
1. Một đất nước trên đà suy thoái
Cái ấn tượng chung và bao quát trong
chuyến về thăm quê là đất nước này đang trên đà suy thoái hầu như về mọi mặt.
Mặc cho những con số thống kê kinh tế màu hồng được tô vẽ bởi Nhà nước, trong
thực tế thì cuộc sống của người dân càng ngày càng khó hơn. Hơn 70% dân số là
nông dân hay sống ở miệt quê, nên chúng ta thử xem qua cuộc sống của một gia
đình nông dân tiêu biểu, gồm vợ, chồng và 2 con. Gia đình này làm ra gạo để các
tập đoàn Nhà nước đem đi xuất khẩu lấy ngoại tệ (và chia chác?) nhưng số tiền
mà họ để dành thì chẳng bao nhiêu. Gia đình này có thể có 5 công đất (hoặc cao
lắm là 10 công đất), sau một năm quần quật làm việc “bán mặt cho đất, bán lưng
cho trời”, cả nhà chỉ để dành khoảng 10-15 triệu đồng, có khi còn không bằng một
bữa nhậu của các quan chức.
Cuộc sống của người nông dân là nợ triền
miên. Đầu mùa thì vay ngân hàng để mua giống, mua phân, mua thuốc trừ sâu; thu
hoạch xong thì phải trả nợ cộng tiền lời cho ngân hàng. Rồi đến mùa vụ kế tiếp
thì cái vòng vay – trả nợ lại bắt đầu. Con của người nông dân đi học, thì mỗi
đứa phải gánh ít nhất là 10 loại phí khác nhau, có khi lên đến 20 phí! Các
trường, các uỷ ban nhân dân, các cơ quan công quyền, v.v. đua nhau sáng chế ra
những loại phí để moi móc túi tiền người dân vốn đã quá ít ỏi. Họ không cần biết
người dân có tiền hay không, phí là phí, và phải đóng phí. Không ít gia đình
không có tiền đóng phí nên cho con nghỉ học. Đã có tình trạng người dân không
đủ tiền trả viện phí nên tìm đến con đường tự tử.
Môi trường sống xuống cấp thê thảm. Sự
gia tăng dân số gây áp lực cực kì lớn đến môi sinh. Mật độ dân số tăng nhanh,
ngay cả ở vùng nông thôn. Có thể nói rằng hầu hết các con sông ở Việt Nam đang chết.
Tất tần tật, kể cả heo gà và có khi cả người chết, cũng bị vứt xuống sông.
Những con sông Việt Nam
đang chết vì chúng đã biến thành những bãi rác di động khổng lồ. Đó là chưa nói
đến sự xâm nhập của nước mặn vào các con sông vùng Đồng bằng sông Cửu Long, một
phần là do mấy cái đập lớn Tàu xây trên thượng nguồn của sông. Tôi cho rằng sự
suy thoái về môi trường là mối đe doạ lớn nhất đến sự tồn vong của đất nước.
Ở đất nước này, chính quyền đã mắc cái
bệnh vô cảm quá lâu, và bệnh đã trở thành mãn tính, rất khó cứu chữa. Cái bệnh
vô cảm của chính quyền nó còn lan truyền sang cả xã hội, mà trong đó mọi người
dùng mọi phương cách và thủ đoạn để tranh nhau ngoi lên mặt đất mà sống. Có thể
nói cả xã hội đang chạy đua. Cái chữ “chạy” ở Việt Nam đã có một ý nghĩa khác. Dân
chạy để đưa con cái vào đại học, vào cơ quan Nhà nước để hi vọng đổi đời. Quan
chức cũng chạy đua vào các chức vụ trong guồng máy công quyền, và họ chạy bằng
tiền. Tiền dĩ nhiên là từ dân. Thành ra, cuối cùng thì người dân lãnh đủ. Sự
suy thoái ở Việt Nam
diễn ra trên mọi mặt, từ kinh tế, môi trường, y tế, giáo dục, đến đạo đức xã
hội.
2. Đất nước đang bị “bán”
Một anh bạn tôi vốn là một doanh nhân
(businessman) thành đạt cứ mỗi lần gặp tôi là than thở rằng đất nước này đang
bị bán dần cho người nước ngoài. Mà, đúng là như thế thật. Ở khắp nơi, từ Đà
Nẵng, đến Nha Trang, tận Phú Quốc, người ta “qui hoạch” đất để bán cho các tập
đoàn nước ngoài xây resort, khách sạn, căn hộ cao cấp. Một trong những “ông
chủ” mới thừa tiền để mua tất cả của Việt Nam là người Tàu lục địa.
Chẳng những đất đai được bán, các thương
hiệu của Việt Nam
cũng dần dần bị các tập đoàn kinh tế nước ngoài thu tóm và kiểm soát. Chẳng hạn
như các tập đoàn Thái Lan đã thu tóm những thương hiệu bán lẻ và hàng điện tử
của Việt Nam .
Tuy nhiên, người dân có vẻ “ok” khi người Thái kiểm soát các cửa hàng này, vì
dù sao thì người Thái đem hàng của họ sang còn có phẩm chất tốt và đáng tin cậy
hơn là hàng hoá độc hại của Tàu cộng.
Đó là chưa kể một loại buôn bán khác:
buôn bán phụ nữ. Phụ nữ Việt Nam
được quảng cáo ở các nước như Tàu, Đài Loan ,
Singapore và
Đại Hàn. Chưa bao giờ người Việt Nam chịu nhục khi con gái Việt Nam được cho
đứng trong lồng kiếng như là những món hàng để người ta qua lại ngắm nghía và
trả giá! Thử hỏi, có người Việt Nam
nào tự hào được khi đồng hương mình bị đem ra rao bán như thế. Xin đừng nói đó
là những trường hợp cá biệt; đó là tín hiệu cho thấy một đất nước đang bị suy
thoái về đạo đức xã hội.
3. Tham nhũng tràn lan
Không cần phải nhờ đến tổ chức minh bạch
quốc tế chúng ta mới biết Việt Nam
là một trong những nước tham nhũng nhất thế giới. Chỉ cần tiếp xúc với hải
quan, hay bất cứ cơ quan công quyền nào, người dân đều có thể nếm “mùi tham
nhũng”. Tham nhũng từ dưới lên trên, từ bên này sang bên kia, từ cấp thấp đến
cấp cao. Có khi tham nhũng công khai, và kẻ vòi tiền mặc cả cái giá mà không hề
xấu hổ. Các cơ quan Nhà nước phải hối lộ các cơ quan Nhà nước khác, và họ xem
đó là bình thường. Ngay cả những ngành dịch vụ tưởng như là “trí thức” như giáo
dục và y tế mà cũng tham nhũng, và vì họ có học nên tham nhũng ở hai ngành này
còn “tinh tế” hơn các ngành khác!
Có thể nói là tham nhũng (và hối lộ) đã
trở thành một thứ văn hoá. Cái văn hoá này nó ăn sâu vào não trạng của cán bộ
Nhà nước. Đã là văn hoá thì nó rất khó xoá bỏ một sớm một chiều. Ngay cả ông
tổng Phú Trọng còn thú nhận rằng tình trạng tham nhũng như “ghẻ ruồi, rất ngứa ngáy,
khó chịu”, nhưng cho đến nay ông cũng không làm được cái gì để giảm tình trạng
này.
4. Xã hội bất an
Có thể nói không ngoa rằng Việt Nam là
một xã hội bất an. Đọc báo hàng ngày thấy tin tức về tội phạm dày đặc khắp nơi.
Chẳng những sự phổ biến của tội phạm, mà sự manh động của các vụ án càng ngày
càng táo tợn. Chưa nơi nào có những vụ giết người vô cớ như ở Việt Nam : chỉ một
cái nhìn cũng có thể dẫn đến cái chết!
Đáng ngại nhất là tội phạm đã lan tràn
về tận vùng quê. Ở quê tôi, nơi mà ngày xưa là một làng êm ả, ngày nay là một
cộng đồng bất an vì những vụ chém giết xảy ra hầu như hàng tuần! Người dân dưới
quê cảm thấy mệt mỏi, không muốn nuôi trồng gì nữa, vì nạn trộm cắp hoành hành
triền miên. Nuôi cá chưa đủ lớn thì đã bị trộm câu mất. Trồng một cây mít, trái
chưa chín thì đã có trộm hái dùm. Chưa bao giờ tình trạng trộm cắp phổ biến như
hiện nay ở vùng nông thôn.
Đó là chưa nói đến tai nạn giao thông
vốn còn kinh hoàng hơn cả trộm cắp. Ở Việt Nam , bước ra đường là chấp nhận rủi
ro tai nạn, thậm chí chết vì sự hỗn loạn của hệ thống giao thông. Thật vậy, tai
nạn giao thông ở Việt Nam
đã và đang trở thành nỗi kinh hoàng của không chỉ người dân địa phương mà còn ở
du khách.
5. Trí thức không có tiếng nói,
không có phản biện
Theo dõi báo chí ở Việt Nam , dễ dàng
thấy sự trống vắng tiếng nói của giới trí thức. Trước một sự kiện tương đối
quan trọng như đại hội đảng CSVN, mà không hề có bất cứ một bình luận độc lập
nào, không hề có một bài phân tích về các nhân vật chóp bu trong đảng, hoàn
toàn không có một phát biểu mang tính viễn kiến của bất cứ một nhân vật “lãnh
đạo” tương lai nào! Thay vào đó là những tiếng nói của những người mang danh
“sư sĩ” nhưng cách họ nói và ngôn ngữ của họ thì chẳng khác sự “cò mồi” là bao
nhiêu.
Trước hiện tình đất nước, giới có học
nói chung có vẻ lãnh đạm. Họ không quan tâm. Họ thường chạy trốn thực tế bằng
cách biện minh rằng “chỉ lo việc chuyên môn”. Thật ra, cũng khó trách họ, vì
nếu họ nói ra những ý kiến thì có thể sẽ bị phạt nặng nề, thậm chí tù đày. Ngay
cả yêu nước là một tình cảm thiêng liêng mà cũng phải được tổ chức và … cho
phép. Một xã hội đối xử với giới trí thức như thế thì làm sao bền vững được.
6. Guồng máy quản lí bất tài
Thật ra, sự bất tài của quan chức Nhà
nước không còn gì là bí mật. Vì bất tài, nên họ thường “sản xuất” ra những qui
định hài hước, và có khi cực kì vô lí và phi khoa học. Chúng ta còn nhớ trước
đây, họ cho ra qui định mang danh “ngực nở chân dài” để được lái xe ô-tô, gây
ra một trận cười cấp quốc gia. Tưởng như thế đã là hi hữu, ai ngờ họ lạ tái
xuất với một qui định “trời ơi”: Xe ô-tô 4 bánh phải có bình chữa cháy. Qui
định này làm trò cười cho cả thế giới và các hãng sản xuất xe hơi. Tưởng qui
định như thế đã là vô lí, họ còn cho ra một qui định “trên trời” như xe trên 10
chỗ ngồi phải có găng tay và khẩu trang lọc độc!
7. Tuy bất tài, nhưng guồng máy
đó rất giỏi trong việc hành dân
Sự hành dân của guồng máy quản lí & hành
chính của Việt Nam
phải nói là vô song trên thế giới. Đối với người dân, có việc đến cổng công
đường là một nỗi sợ, một cơn ác mộng. Hầu như không có một việc gì, từ nhỏ đến
lớn, mà trôi chảy lần đầu khi đến gặp các quan chức Nhà nước. Tôi về quê và
nghe nhiều câu chuyện hành dân mà nói theo tiếng Anh là “incredible” – không
thể tin được. Chỉ cần cái họ viết sai dấu (như “Nguyển” thay vì “Nguyễn”) là
cũng bị hành và tốn tiền triệu! Những lỗi sai chính tả đó là của họ (quan chức,
cán bộ), nhưng họ vẫn hành dân một cách vô tư. Họ tìm mọi cách, mọi lúc để “đá”
dân từ cơ quan này sang cơ quan khác, và biến dân như những trái banh để họ làm
tiền. Thực dân Pháp ngày xưa có lẽ cũng không hành dân như cán bộ Nhà nước ngày
nay.
Năm 2016 này Việt Nam sẽ tham gia
Cộng đồng Kinh tế ASEAN (ASEAN Economic Community hay AEC). Mục tiêu là hình
thành một cộng đồng kinh tế có khả năng cạnh tranh cao, hàng hoá và dịch vụ,
đầu tư sẽ tự do lưu chuyển giữa các nước thành viên. Tôi ghé thăm một đại học
lớn ở Thái Lan vào năm 2013, và giới trí thức bên đó đã bàn rất nhiều về viễn
cảnh này, họ tư vấn cho chính phủ để chuẩn bị hoà nhập vào AEC. Nhưng ngạc
nhiên thay, ở Việt Nam
rất ít thảo luận về AEC và những tác động của nó đến cuộc sống của người dân!
Nhưng với tình trạng suy thoái, đất nước bị “bán”, tham nhũng tràn lan, xã hội
bất an, trí thức không có tiếng nói, guồng máy quản lí bất tài nhưng giỏi hành
dân, thì không nói ra, chúng ta cũng biết là khả năng cạnh tranh của Việt Nam không cao
trong AEC. Khả năng cạnh tranh không cao rất có thể dẫn đến nguy cơ lệ thuộc.
Nguyễn Văn Tuấn
(FB Nguyễn Tuấn)
Nhận xét