3618. Đất và người Lũng Cú

Đất và người Lũng Cú
Phóng sự của Thái Sinh
Cao nguyên đá Hà Giang. Ảnh Ngọc Dương
Hàng ngày những người dân cực bắc Lũng Cú căm cụi xếp những bờ đá cao chất ngất để giữ từng nắm đất, tạo nên những nương, ruộng bậc thang dài tít tắp. Phải, họ cũng giống như cây tung tống thá này, đứng hiên ngang giữa đất trời bao đời nay bão giông không quật ngã nổi, kiên gan bám mảnh đất biên giới bạt ngàn đá.

Lần đầu tiên lên Hà Giang tôi ao ước được đặt chân lên Lũng Cú, cái mảnh đất tận cùng ở nơi cực bắc của Tổ quốc, mỗi khi nhìn lên bản đồ tôi phải ngửa cổ mới nom thấy được. Sau mấy ngày chờ đợi, mãi sớm nay trong cái nắng gió tưng bừng của miền cao nguyên đá tôi ngược lên Đồng Văn.

Núi cột cờ Lũng Cú. Ảnh Thái Sinh
Làm đất trồng ngô trên đá. Ảnh Ngọc Dương
Vừa ra khỏi thị xã Hà Giang là gặp núi đá, nhưng núi ở đây chưa thấm vào đâu, chỉ khi chạm chân lên dốc Cán Tỷ mà cánh lái xe gọi là dốc “chối tỷ” thì núi mới trở nên khủng khiếp. Núi dựng đứng, xám lạnh xô nhau lớp lớp dâng lên tận trời xanh. Tôi có cảm tưởng đá ở khắp mọi nơi đã dồn tụ về đây để tạo nên một Đồng Văn đá. Hà Giang có 4 huyện núi đá, nhưng Đồng Văn đá khủng khiếp nhất, đá và núi cứ duềnh lên như sóng, tua tủa nhọn hoắt. Hiếm hoi lắm mới gặp một vạt rừng thưa, những ngôi nhà trình tường bằng đất lợp ngói âm dương hay mái rạ thấp lè tè khuất lấp trong rừng đá. Chiếc xe UAZ còn khá tốt nhưng phải bò rì rì trên con đường dốc khúc khuỷu trong cái nắng gió ngạt ngào, thỉnh thoảng người lái xe phải dừng lại mở nắp capô cho nước trong máy nguội bớt mới chạy được. Gần tối chúng tôi mới tới được Đồng Văn, nên không thể đi tiếp lên Lũng Cú còn ngót 30 cây số đường đèo dốc nữa.
Nhà của người dân ở Đồng Văn được chắn bởi
những bức tường đá. Ảnh Ngọc Dương
Huyện Đồng Văn có tổng diện tích đất tự nhiên là 43.880 ha, cuộc sống của đồng bào các dân tộc nơi đây chủ yếu trông vào 7.650 ha ngô một vụ trên các nương đá. Trận mưa hiếm hoi đêm qua chả thấp tháp vào đâu trước nắng gió tưng bừng. Đồng Văn có 19 xã nhưng có tới 12 xã không có mạch nước, sống cheo veo trên các sườn núi đá thiếu nước là câu chuyện truyền kiếp, nơi nào may mắn có mạch nước thì cũng chỉ đủ cho mấy thôn bản xung quanh, còn những thôn bản khác họ chặn các khe đá dùng đất miết vào các khe nứt tạo thành các giếng cạn hứng nước trời. Có nơi họ đào những cái giếng rộng bằng hai ba cái thúng sâu vài gang tay nằm bên cạnh các con đường mòn, khi trời mưa xuống nước chảy theo đường mòn dồn vào các giếng cạn, họ để nước lắng xuống rồi múc về dùng. Mấy năm nay tỉnh hỗ trợ cho mỗi gia đình vài tạ xi măng để xây bể hứng nước mưa. Tình trạng thiếu nước gay gắt đâu phải đã thật chấm dứt., nhiều hộ vẫn phải lấy nước xa từ 5-15 cây số. Ví như người dân Xín Lủng, Sà Phìn phải dậy từ 1 giờ sáng đi địu nước, 8 giờ sáng thì mang được một can nước 10 lít trở về, mỗi ngày giỏi lắm một người cũng chỉ đi lấy được hai chuyến nước. Dọc đường tôi gặp từng tốp đi lấy nước, trên lưng người và các con ngựa là những can nhựa trắng. Tôi hỏi một người chừng nào thì mang được nước về tới nhà, anh ngẩn ra một lúc rồi bảo: “ Phải tối ta mới về tới nhà à...” Thế có nghĩa là người đàn ông kia phải mất 3 giờ đi bộ nữa mới mang được 2 can nước về tới nhà.
Nhà báo Thái Sinh trước cổng
dinh thự “vua mèo” Vương Chí Sình. Ảnh TS
Sớm hôm sau tôi lên Lũng Cú, từ đồn biên phòng Mã Lé chúng tôi vượt qua Cổng trời mới vào được Lũng Cú, mảnh đất của khá nhiều truyền thuyết, khi tới đây tôi mới được nghe kể. Chuyện rằng: Khi đánh tan 20 vạn quân Thanh thu giang sơn về một mối, vua Quang Trung ban cho vùng đất này đôi trống để khi có giặc thì nổi trống báo cho toàn dân biết. Từ đó người ta gọi vùng đất chót cùng nơi cực bắc này là Long Cổ-tức là trống rồng. Sau người ta ta đọc chệch hai tiếng Long Cổ thành ra Lũng Cú. Người dân Lô Lố xóm Lô Lố Chải hiện còn đang giữ một đôi trống đồng, họ chỉ đánh trống khi xóm làng có chuyện dữ, hoặc trong ngày những ngày lễ hội. Không biết đôi trống đồng đó có phải của vua Quang Trung ban cho không?
Một xóm người Mông ở Đồng Văn
Người dân phơi đậu tương ở Đồng Văn
Ảnh Ngọc Dương
Cũng có người kể rằng Lũng Cú được đọc chệch ra từ hai tiếng Long Cư- nghĩa là nơi rồng ở. Tại chân đồi Thèn Pả trước mặt xóm Lô Lố Chải có một hồ nước không khi nào cạn. Dân làng qui ước không ai được bắt cá ở hồ đó và cũng không cho phép ai bắt cá ở nơi khác thả vào, làm như vậy sẽ làm khuấy động nơi ở của rồng thiêng. Hàng năm vào những đêm mưa lớn có người đã nhìn thấy rồng từ hồ nước bay về phía sông Nho Quế xuôi về biển...Chuyện từ ngàn đời thực chẳng ai rõ. Nhưng có người quả quyết rằng Lũng Cú là nơi người con trai út của Lạc Long Quân và Âu Cơ tới lập nên tộc người Lô Lố.
Việc quanh  nhà ở Đồng Văn.
Ảnh Ngọc Dương
Mẹ Vàng Thị vềnh bên trống đồng.
Ảnh Thái Sinh
Lũng Cú nghèo lắm, cả xã có 9 xóm với chừng 3.000 khẩu, bí thư chi bộ  Giàng Sính Vư bảo tôi: “ Mình biết từng nhà mỗi năm gieo bao nhiêu cân giống, xã mình cấy 1.116 cân thóc giống, 2.800 cân ngô. Tất cả chỉ làm một vụ thôi, vì không có nước và mùa đông ở đây rét lắm, không trồng nổi cây gì nên nhiều hộ bây giờ cũng đã hết cái ăn rồi...” Lầu Dúng Páo dẫn tôi lên Lô Lố Chải, xóm có vài chục nóc nhà nằm rải rác trên các sườn núi, tất cả các ngôi nhà đều trình trường và có rào đất vây quanh. Đang kỳ giáp hạt xóm vắng teo, đàn ông đều đi nương hay đi làm thuê ở các thôn bản xa. Páo dẫn tôi vào nhà chị Vàng Thị Miến, mới ngoài 30 tuổi người gầy tong teo, chị cho tôi hay nhà chị hết cái ăn từ giữa tháng ba, chồng chị là Sình Dỉ lai đang đi đóng ngói thuê kiếm ngô nuôi cả nhà. Chị bảo tôi: “ Nhà mình có 8 anh em, bố mẹ chia cho mỗi người một ít đất, vợ chồng mình để ruộng cho các em chỉ lấy nương thôi, mỗi năm đủ gieo hai cân ngô giống, thu tám gùi ngô à...” Chiếc cối xay ngô là tài sản duy nhất đáng giá của gia đình vợ chồng Sình Dỉ Lai thôi không xay từ lâu rồi, mạng nhện và bồ hóng phủ đầy mặt cối. Cách nhà chị Miến không xa là gia đình mẹ Vàng Thị Vềnh đang giữ một trong hai chiếc trống đồng của Lũng Cú. Lúc này chỉ có mẹ và hai đứa cháu ở nhà, người con dâu là Vàng Thị Xuyến vừa đi nương về, chị chia cho đám trẻ mỗi đứa dăm sáu quả mận dại. Mẹ Vềnh cho tôi hay, năm nay mẹ đã hơn bảy mươi tuổi, theo lời những người già thì chiếc trống đồng gia đình mẹ đang giữ được truyền qua 5-6 đời rồi, tôi nhẩm tính cũng đã trên dưới 250 năm. Nếu không có Lầu Dúng Páo thì chưa chắc mẹ đã cho tôi xem trống. Người con dâu và người thanh niên hàng xóm loay hoay một lúc mới đem được chiếc trống đồng từ trên gác nhà xuống. Chiếc trống còn khá nguyên vẹn, trên mặt trống là hình mặt trời, bay quanh là bầy chim hạc. Những nét hoa văn còn khá rõ, chứng tỏ người Lô Lố gìn giữ trống rất cẩn thận. Nhà mẹ Vềnh có 7 người, chồng  mẹ là Vàng Dỉ Thuấn và con trai là Vàng Dỉ Chế đi làm công (làm thuê). Tôi hỏi mẹ: “Nhà đang thiếu ăn mẹ bán cái trống này lấy tiền mua ngô về ăn đi...” Mẹ nhìn tôi hơi sững lại, giọng mẹ trở nên giận dữ: “Không bán đâu. Đói cũng không bán!...” Tôi lại hỏi: “ Thế mẹ để làm gì?” Mẹ bảo con dâu cất trống rồi thủng thẳng đáp: “Cái trống này của cha ông, mình phải giữ cho người Lô Lố chứ...” Tôi hoàn toàn bất ngờ ở nơi miền biên giới xa xôi này lại có người như mẹ Vềnh, trước mùa đói ngằn ngặt vẫn quyết giữ vật thiêng của cha ông với một điều vô cùng giản dị: Giữ cho người Lô Lố. Vâng, đó là Tổ quốc, là hồn thiêng của dân tộc Việt.
Dinh thự vua Mèo sau hàng rào đá.
Ảnh Thái Sinh
Nhà báo Thái Sinh bên ngôi nhà thôn Lố Lố Chải
Mộ nhà quan Vương chí Sình. Ảnh Thái Sinh
Rời nhà mẹ Vềnh tôi ngồi xuống gốc cây tung tống thá (*) cổ thụ trước xóm Lô Lố Chải nhìn sang xóm Xéo Lủng. Xóm có trên 30 nóc nhà, xóm nghèo nhất Lũng Cú, bởi từ năm 1991 đến năm 1998 bọn người xấu ở phía bên kia đã hai lần sang đốt phá nhà cửa dồn dân Xéo Lủng vào sâu trong đất Việt. Hai lần xóm bị đốt, hai lần người Xéo Lủng trở về dựng lại nhà cửa, quyết không rời bỏ đất cha ông, giữ lấy từng tấc đất. Bởi thế hơn 13 cây số đường biên nơi Lũng Cú nghìn năm vẫn nguyên vẹn. Ngày lại ngày họ họ cặm cụi xếp những bờ đá cao chất ngất để giữ từng nắm đất. Phải họ cũng giống như cây tung tống thá này đứng hiên ngang giữa đất trời nơi cực bắc của Tổ quốc bao đời nay bão giông không quật ngã nổi, kiên gan bám mảnh đất biên giới bạt ngàn đá. TS
-----------
(*) Tung tống thá: cây gỗ nghiến 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

5044. Màu đỏ Artek

5485. Vì sao nước Đức hùng mạnh? (Kỳ 1)

6272. Kịch tính vụ kit Việt Á ngày càng cao.