3968. Đọc lại bài: Mười bẩy tháng Hai Bẩy chín – nhớ gì ghi nấy.
Mười bẩy tháng Hai Bẩy chín
– nhớ gì ghi nấy.
NND/ PNTB
Năm ấy, tôi là giảng viên ở
Trường Đảng tỉnh Hoàng Liên Sơn (thị xã Yên Bái). Cách đấy hai ngày, trong một
buổi nói chuyện thời sự, ông Trưởng ban Tuyên
giáo tỉnh ủy khẳng định: “Tình hình biên giới rất căng thẳng, nhưng các đồng
chí cứ yên tâm, Trung Quốc không thể đánh chúng ta bằng quân sự được”…
Tôi hiểu, đó là thông điệp của
Trung ương, ông Trưởng ban Tuyên giáo nói là nói theo Ban Tuyên giáo Trung ương
và Ban Tuyên giáo Trung ương nói là ý của Bộ Chính trị, chứ đó tuyệt nhiên
không phải là phát ngôn cá nhân. Và điều đó hoàn toàn có lý. Cùng là nước xã
hội chủ nghĩa anh em, ai lại đánh nhau!
5 giờ 30 sáng ngày 17/2/1979, thời tiết cũng như hôm
nay: trời se lạnh, lãng đãng sương mù, bầu trời xám xịt. Tôi dậy tập thể dục.
Thị xã Yên Bái, cách Biên giới khoảng gần 200 km, vẫn bình thản trong mọi sinh
hoạt thường nhật. Nhưng đúng 6 giờ, buổi phát thanh thời sự của Đài Tiếng nói
Việt Nam vang lên ở chiếc loa nén công cộng: “Lúc 5 giờ sáng hôm nay, nhà cầm
quyền Bắc Kinh đã tấn công quân sự toàn tuyến biên giới phía Bắc gồm 6 tỉnh từ
Quảng Ninh đến Lai Châu…!”. Bản tin làm cho cả nước và thế giới xôn xao. Tôi
cảm thấy như đất dưới chân đang lún xuống, người chếnh choáng. Không thể giải
thích được rằng, tại sao cùng là phe xã hội chủ nghĩa, cùng là “anh em”, vừa
giúp nhau đánh Mỹ hôm nọ, nay lại đả nhau như kẻ thù thế này!?
Không thể dùng từ nào khác
là kẻ thù, thậm chí lúc ấy hệ thống tuyên truyền của ta còn
khẳng định: “Bọn bành trướng trong giới cầm quyền Bắc Kinh là kẻ thù
nguy hiểm và trực tiếp”. Vì thế, phải tách đối tượng ra bằng khái niệm “Bọn
Bành trướng trong giới cầm quyền Bắc Kinh”. Nói như vậy nghĩa là Ban lãnh đạo
Trung Quốc vẫn không phải là kẻ thù. Kẻ thù chỉ là một ai đó, một số người nào
đó nằm trong giới cầm quyền của Trung Quốc. Còn Trung Quốc vẫn là anh em? Thực
ra thì cả Dân tộc Việt Nam không
còn lạ gì truyền thống xâm lược ngàn đời của Trung Quốc đối với nước ta.
Từ giờ phút đó, tôi đứng ngồi
không yên, không phải chỉ vì Tổ quốc đang bị kẻ thù xâm lược giày xéo mà vợ
con, gia đình nội ngoại của mình thì đang nằm trong tầm pháo địch. Bà xã đang
công tác ở Phòng Văn hóa thông tin huyện Bảo Thắng (thị trấn Phố Lu). Đứa con
gái đầu lòng 5 tuổi đang ở với mẹ. Rồi ông cụ thân sinh ra tôi và mấy đứa em;
rồi cả nhà bố mẹ vợ ... cũng đang nằm trong vùng chiến sự... Tất cả đều không
có tin tức gì (ngày ấy đâu có di động như bây giờ).
Ảnh minh họa. Anh tư liệu |
Ngày nào tôi cũng đạp xe 6 cây
số ra ga Yên Bái ngóng người nhà. Không có tàu khách. Những con tàu chở than,
chở quặng, những “toa đĩa” người người đông nghịt, đều là dân thường, chủ yếu
là phụ nữ, người già và trẻ em chen chúc nhau đi xuôi chạy giặc. Những gương
mặt phờ phạc vì lo sợ, vì đói khát, vì thiếu ngủ... Nhưng chuyến tàu nào cũng
chờ hết người vào ga Yên Bái cũng chẳng thấy tăm hơi vợ con, bố và các em.
Mãi đến 20/3 mới thấy bà xã
dắt đứa con gái 5 tuổi lếch thếch ra cửa nhà ga. Cả hai mẹ con mặt đầy than,
đen nhẻm, nom như người vừa móc ở dưới lỗ lên! Con bé Hồng ngơ ngác trước cảnh
hỗn loạn... Tôi nhìn thấy vợ con muốn bật khóc.
Rồi cả hai vợ chồng lại lo cho hai ông bố, bà mẹ, lo cho những đứa em
còn tuổi thiếu nhi...không biết giờ này đã chạy thoát đi xuôi chưa? Thật là
khốn nạn cho người dân trong hoàn cảnh chiến tranh... Có người nói: “Trâu bò
húc nhau ruồi muỗi chết”.
Ảnh minh họa. Ảnh tư liệu |
Vợ tôi lúc ấy mới 30 tuổi, vẫn
còn sinh hoạt Đoàn, nên người ta cho mang con nhỏ đi gửi cho chồng đang công
tác ở thị xã tỉnh lỵ rồi vài hôm lại phải quay về Phố Lu để phục vụ lực lượng
chiến đấu. Hằng ngày phải lên chốt đào công sự, trồng tre, tiếp tế lương thực,
thực phẩm cho bộ đội, dân quân tự vệ... Ở hướng dọc theo sông Hồng, Phố Lu là
điểm cuối cùng quân Trung Quốc đánh chiếm. Ngày 5 tháng 3, nghe đâu Đặng Tiểu
Bình lệnh cho quân đội Trung Quốc rút thì họ cũng rút khỏi Phố Lu.
Ngày 9/3, một Đoàn công tác
của Ban Tuyên Giáo trung ương do một Phó ban tên là Nguyễn Hoàng dẫn đầu, cùng
một số vụ trưởng, vụ phó và chuyên viên đi thị sát vùng chiến sự. Do có nhà ở
Phố Lu, là người thông thạo địa hình, nên tôi được nhà trường cử đưa Đoàn lên
Bảo Thắng. Xe chạy ngược Quốc lộ 70, con đường mà năm 1968, quân đội Trung Quốc
giúp ta xây dựng, lúc ấy có tên là Quốc lộ Hữu nghị 7. Khi đến địa phận xã Xuân
Quang, huyện Bảo Thắng tôi thấy hai bên đường có nhiều súc vật chết: những con
trâu, con bò chết trương lên, ruồi nhặng bu kín. Thỉnh thoảng gặp một cái cống,
một cây cầu nhỏ bị mìn phá hỏng, xe phải đi lánh xuống rệ đường. ( Nghe đâu đó
là do quân ta phá để chặn đường tiến của Quân Trung Quốc). Trên đường đi, thỉnh
thoảng vẫn giật thót mình bởi nghe những tiếng súng cối đì đùng rất gần.
Trên xe có người giàu kinh nghiệm chiến trường bảo: đó là pháo của ta bắn đuổi
bọn Tàu khựa đang chuồn về nước. Ở một khu ruộng gần Bắc Ngầm có những đống cát
tút đạn pháo cỡ lớn, cỡ nhỏ chất như núi, vàng chóe....
Lên đến Phố Lu, bộ phận
lãnh đạo huyện cùng sống với anh em dân quân tự vệ trong cảnh không giường
chiếu, trong những ngôi nhà mà quân Trung Quốc vừa rút khỏi sau khi chiếm giữ.
Thực phẩm là gà, lợn, chó...chạy rông, anh em gặp là “đọp” về mổ. Rau thì cứ
tiện vườn nhà nào có thì vào hái như hái rau rừng. Bởi lúc này toàn bộ khu vực
không có dân...
Tôi được anh em cho về thăm
nhà. Về nhà mình mà như vào một nơi xa lạ đầy nguy hiểm. Ngôi nhà gỗ 3 gian lợp
tranh, cách trụ sở Huyện ủy chưa đầy một cây số. Vừa đi vừa dò giẫm, chỉ sợ
vướng vào mìn do quân Trung Quốc cài lại. Đứng trước ngôi nhà, tôi lặng người
xúc động như thể lâu ngày gặp lại người thân. Nhưng không dám mở cửa bước vào
bởi trên cánh cửa đã được dán một băng giấy niêm phong, có mấy chữ Trung Quốc
viết nguệch ngoạc. Đó là khẩu hiệu tuyên truyền của họ. Dưới gốc quýt ở đầu nhà
là một cái bếp, kiểu bếp Hoàng Cầm của bộ đội mình hồi chống Mỹ. Nhưng đó là
bếp của lính Trung Quốc tạo ra để nấu ăn. Họ không nấu trong bếp mà lấy hết nồi
xoong, bát đĩa của nhà tôi ra đào bếp nấu ở ngoài trời. Phía sau nhà tôi là một
ta luy dương, dựa vào một đồi chè, phía trên đồi chè là dãy tre hóa. Vì thế rất
tiện cho họ làm nơi phòng thủ. Họ đào những hầm ếch làm công sự, bên trong trải
đầy ruột chăn bông trắng mà họ vơ được từ cửa hàng bách hóa của huyện về để làm
ổ nằm phục kích...Bây giờ họ đi rồi, chỉ còn lại mùi tỏi, mùi nước đái sặc sụa,
mùi đặc trưng của lính Tàu.
Hôm sau, đoàn công tác tiến
thêm khoảng hai chục cây số, lên địa phận xã Gia Phú, cách thị xã Lào Cai chừng
hơn chục cây số. Ở đây, quân Trung Quốc cài lại khá nhiều mìn. Tôi gặp nhà thơ
Ngô Văn Phú ở Hà Nội lên đi cùng với nhà thơ Lê Vân của hội văn nghệ Hoàng Liên
Sơn. Ngô Văn Phú bảo tôi: “Nghe đâu ở khu vực này có cái suối nước nóng hay
lắm, cậu thông thổ địa hình đưa chúng tớ vào tắm một cái”. Tôi biết có suối
nước nóng nhưng thực tình cũng chưa đến đấy bao giờ. Bây giờ từ chối thì không
tiện, nên bảo anh Phú, anh Vân cứ đi với em, em đưa vào. Tôi nghĩ ra kế: cứ lần
ngược con suối, chắc chắn phải đến địa điểm nước nóng, vì nước nóng ở thượng
nguồn. Quả nhiên, cứ lội dọc suối lên rừng, chúng tôi đã đến được nơi phun lên
những dòng nước nóng hôi hổi, bốc khói nghi ngút. Nước trong vắt chảy ra từ một
khe đá, tạo thành một cái “ao” nước nóng đường kính khoảng ba, bốn mét, sâu đến
lưng bụng, ở giữa nổi lên mấy tảng đá, nom như hòn non bộ. Tôi cởi quần áo dài,
nhưng vẫn lưỡng lự vì sợ tắm ướt quần đùi... Anh Ngô Văn Phú bảo, tụt ra, tụt
hết ra. Ở đây chỉ có ba thằng đàn ông mày còn sợ gì. Thế là ba anh em xuống tắm
truồng ở suối nước nóng. Thật nhớ đời!.
Lúc về, nhà thơ Ngô Văn Phú
bảo tôi dẫn lên một quả đồi. Trên con đường mòn lên đồi, dây mìn trắng tinh còn
giăng đầy. Anh Lê Vân rụt rè, thôi các ông đi, tôi không dám theo, nhỡ ra vướng
mìn, chết vô ích. Anh Phú bảo: “Ông sợ thì về, tao với thằng Dương đi. Chết thế
đếch nào được. Dây mìn trắng tinh như thế kia họa có mù mới không nhìn thấy. Cứ
nhẹ nhàng bước qua, đừng vấp vào nó thì nó nổ làm sao được”. Thế là tôi và anh
Ngô Văn Phú lên tận đỉnh chốt. Đến đây thì chúng tôi thấy một đống đạn cối 12
ly 7 còn nằm đó. Đếm được 12 viên. Khi về, tôi và anh Phú báo cho địa phương
lên thu lượm lại. Đó là pháo của ta bắn chưa hết nhưng chả hiểu sao anh em vẫn
bỏ lại đấy.
Ở Bến Đền lúc ấy chưa có cây
cầu đường sắt bắc qua suối Bo như bây giờ, còn phải đi phà, gọi là bến phà Đồng
Lục. Phía Nam là thôn Đồng Lục, phía Bắc là thôn Hòa Lạc. Nghe đâu khi quân
Trung Quốc bu đến bờ Bắc như kiến thì ở phía bờ Nam, bộ đội ta bắn một quả B41,
khiến những người lính ở bên kia chết như rạ. Thật khốn khổ và uổng phí xương
máu cho những thanh niên Trung Hoa đang hơ hớ tuổi xuân, khi họ trở thành công
cụ của những kẻ cầm quyền hiếu chiến.
Ảnh minh họa. Ảnh Tư liệu |
Tôi và nhà thơ Ngô Văn Phú đi
vào từng ngôi nhà của đồng bào đã tản cư xuống phía sau, thấy nhà nào quân Trung
Quốc cũng niêm phong, cũng đầy khẩu hiệu chửi bới Đảng cộng sản Việt Nam. Nhưng
họ cũng khôn ngoan là đều viết khẩu hiệu: “Hồ chủ tịch muôn năm”, vì chúng
biết, cụ Hồ là thần tượng của người Việt Nam , không thể nói xấu...
17/2/2014, kỷ niệm 35
năm
ngày nổ ra chiến tranh
biên giới phía Bắc.
(Bài đăng trên PNTB ngày 17/2/2014, nay đã in trong tập truyện ký Mảnh vườn ký ức, NXB Hội Nhà Văn 12/2014)
Nhận xét