3668. Hầu chuyện với Anh Trương Tấn Sang
Hầu chuyện với Anh Trương Tấn Sang
Tác giả: Nguyễn Khắc Mai (theo Viet-studies)
Cụ Nguyễn Khắc Mai |
.KD: Thực sự mình rất
kinh ngạc về bác Nguyễn Khắc Mai. Quen biết bác là lúc bác ở bên Hội Khuyến học
thỉnh thoảng sang họp ở đó thì gặp bác. Nhưng mình ít trò chuyện. Rồi khi nghe
bác Mai thành lập Trung tâm Minh triết, thì càng ngỡ ngàng :P
.Dường
như xã hội mình rất lạ. Rất nhiều người khi về già trở nên.. thông thái, dám
nói thẳng, nói thật, như nhà văn Nguyễn Khải, nhà báo Trần Đĩnh…và nhiều văn
nghệ sĩ khác, và nhà giáo, trong đó có bác Nguyễn Khắc Mai. Không giống như ý
kiến của một số người có ý chỉ trich các bác, mình vẫn trân trọng họ. Bởi đến
cuối đời mới nói được tâm trạng thật, suy nghĩ thật, thì điều đó cho thấy việc
nói thật, nói thẳng khi “đang chức” nó nguy hiểm thế nào.
.Giá
như một xã hội, con người luôn sống thật, nói thật, hẳn đó là một xã hội dân
chủ, và lành mạnh biết bao. Một xã hội nói dối mãi thành bệnh, là một xã hội
không dám nghe nói thật, ghét nghe nói thật, thì nguy cơ là, ngay cả khi bệnh
tật đầy mình, xã hội vẫn được những lời tụng ca, kiểu “khen cho chết”, thì những
lời nói đẹp mới là những con dao ác độc!
.Đương
nhiên những lời nói thẳng, nói thật cũng rất cần công tâm, công bằng, khách
quan. Nói phải củ cải cũng nghe là vậy.
.Bài
viết này, chủ Blog KD/ KD có biên tập một một số chỗ cho phù hợp với tinh
thần của Blog.
PNTB: Còn mình thì quen biết bác Nguyễn Khắc Mai từ những năm 1993-1998, khi mình làm ở Ban Dân vận tỉnh ủy và bác Mai làm vụ trưởng Vụ nghiên cứu rồi TBT tạp chí Dân vận, vẫn chưa để râu dài như bây giờ. Có lần bác ấy bảo định xin mày về thay tao nghỉ hưu nhưng không xin được nhà công vụ lại thôi... Bây giờ thỉnh thoảng lại "gặp" bác trên mạng trong những bài viết tâm huyết với đất nước, khi mà tuổi đã quá bát tuần, râu tóc như ông Tiên...
—————
NKM: Tôi hân hạnh được hầu chuyện với Anh, chung quanh đề tài “Niềm Cay
Đắng”. Khi tiếp xúc cử tri tại TP HCM, Anh nói ”Chúng tôi sẵn sàng nghe
những ý kiến cay đắng”. Anh có nhớ chính Hồ Chí Minh đã nói rất sâu sắc
vấn đề này trong Nhật ký trong tù: Trên đời ngàn vạn điều cay đắng. Cay đắng
chi bằng mất tự do.
.
Hồ Chí Minh còn có một câu khác cũng rất hay, nếu độc lập, thông nhất rồi mà dân không
hưởng được hạnh phúc tự do, thì cũng chẳng nghĩa lý gì. Câu này chính
là học được từ ý của hai cụ Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh, khi hai cụ bàn
với nhau, tranh được độc lập rồi mà không có dân quyền thì cũng vô nghĩa.
Hồ Chí Minh còn có một câu nói
hay nữa là, làm sao cho dân ta
dùng được quyền dân chủ, hưởng được quyền dân chủ, dám nói, dám làm. Câu
đó được nói vào năm 1967. Như thế là đã gần một nửa thế kỷ. Những quyền
dân chủ ở Việt Nam vẫn là
chắp vá, những thứ mà nhân loại tiến bộ sáng tạo ra nhân dân nhiều nước đã dùng
được, hưởng được, thì Việt Nam
ta lại tìm cách ngăn cấm. Thật là cay đắng. Cho nên cụ Hồ trước khi mất đã
phải di chúc, "cần một cuộc chiến tranh để chống lại những hư hỏng cũ kỹ.” Sau
cụ thấy dùng chữ “chiến tranh” có thể bị hiểu lầm, không lợi, nên cụ xóa chữ
tranh và thay bằng chữ đấu. (Ai muốn biết thấu đáo cứ giở Di chúc do NXB ST in).
Điều
cay đắng là, khi nhân dân ta đứng lên làm
cuộc khởi nghĩa Tháng Tám với ước vọng Độc lập Tự do, Hạnh phúc với bản Hiến
Pháp 1946, thì lần hồi sau đó, từng bước đảng CS Việt Nam đã bỏ con đường Dân
tộc, Dân chủ, Dân quyền để đi theo con đường tiến nhanh tiến mạnh lên chủ nghĩa
xã hội. Từ 1959, khi xóa bỏ Hiến Pháp 1946 để đi theo con đường tiến lên chủ
nghĩa xã hội theo mô hình xô viết lạc hậu (nay đã phá sản chính trên quê hương
của nó), thì Việt Nam
ta có cùng một trình độ phát triển, có mặt còn nhỉnh hơn nhiều nước trong khu
vực. Nay hơn nửa thế kỷ trôi qua, Việt Nam ngày càng trì trệ, lạc hậu.
(Xin xem công trình của một nhóm chuyên gia của Harvard, Việt Nam Phát triển
theo hướng rồng bay).
Có
những nghiên cứu trong nước khẳng định rằng để bước vào giai đoạn hiện đại, Hàn
Quốc chỉ đi trong vòng 40 năm, và chỉ chi phí bằng già nửa tiêu phí của Việt
Nam... Có nghĩa là chỉ bằng một nữa đầu tư như chúng ta, mà họ thì mọi mặt
bằng của một đất nước hiện đại đã hoàn chỉnh. Giao thông vận tải, trên
bộ, trên biển, trên không tiên tiến, hiện đại. Các ngành sản xuất hiện
đại với công nghệ cao, sản phẩm có hàm lượng tri thức cao, làm nền cho một nền
kinh tế tri thức hình thành. Khoa học và giáo dục (dẫu còn những tiêu
cực) vẫn là một nền khoa học và giáo dục tiên tiến hiện đại, chẳng kém gì quốc
tế. Vốn xã hội, mặt bằng pháp lý, nhân cách con người phát triển, văn
minh (cứ xem cách ứng xử xã hội sau vụ chìm phà Sewoon thì rõ). Có người
bảo, Hàn Quôc họ lợi dụng được kỹ thuật và tài chính Mỹ. Thế thì tại sao
Việt Nam
không biết đàng lợi dụng.
Còn
chúng ta, cũng chừng ấy thời gian, lại đầu tư gấp đôi người ta, mà chưa có bất
cứ lĩnh vực nào hình thành được mặt bằng của một quốc gia phát triển. Cả
giao thông, cả những ngành kinh tế mũi nhọn, cả khoa học và giáo dục, cả vốn xã
hội, chất lượng con người, cả luật pháp, thể chế (đến nỗi 40, 50 năm vẫn ỳ ạch
trong quốc nạn tham nhũng, gần như vô kế khả thi!). Một nước nông nghiệp,
vốn là chủ nhân của nền văn minh lúa nước, cũng chỉ bán nông sản thô, nông dân
vẫn sống nghèo nàn, không thể vươn lên làm chủ xây dựng được một nền nông
nghiêp hiện đại. Mọi lĩnh vực đều nham nhỡ, không hình thành cho được
những mặt bằng cho sự phát triển tương xứng của dân tộc trong thời đại mới.
Trong
các cuộc họp vừa rồi, các cử tri đã nói với anh vấn nạn tham nhũng. Nhưng
thử hỏi có ba công cụ lớn để chống tham nhũng, là tư pháp, cảnh sát, và báo
chí, thì cả ba đều yếu ớt lại cũng tham nhũng thì dẫu cái ủy ban phòng chống
tham nhũng có ba đầu sáu tay nữa, cũng đành bó tay mà thôi. Cái cay đắng
là người ta chỉ quan tâm đến giải pháp quan liêu hành chính, lập ban nọ ban
kia, mà không biết coi trọng xây dựng cho bằng được công cụ văn minh, hữu hiệu.
Một
quốc gia phát triển được trong thời hiện đại, có bốn yếu tố. Một là tài
nguyên thiên nhiên. Tài nguyên của chúng ta tuy không giàu, nhưng nhiều
ưu thế. Chỉ tính riêng vị trí địa lý thôi, thì đây quả là một thế mạnh
của Việt Nam .
Hai là truyền thống văn hóa. Rất nhiều điều là vốn xã hội cho phát
triển. Ba là tố chất của con người. Tố chất con người Việt có những
ưu trội rất phù hợp cho tiến trình hiện đại. Bước vào thời văn minh tin
học, chính một kỹ sư Việt là người sáng chế chiếc máy tính điện tử vào 1953,
trước đó là máy tính cơ học. Nhiều trí thức, chuyên gia, nghệ sỹ ở tầm
quốc tế. Nhiều người thợ Việt có bàn tay vàng. Thứ tư là những quan hệ xã
hội hiện hữu. Phải thừa nhận rằng mọi quan hệ xã hội hiện hữu của chúng
ta từ chính trị, chính sách, luật lệ, thể chế, tư duy đều tiêu cực, không thích
ứng cho một xã hội phát triển. Chúng ta bị cầm tù trong một thể chế vừa
lỗi vừa lầm, khiến cho mọi ưu thế của đất nước không phát huy được. Cả ba
điều ưu trội của xã hội Việt đều không thể phát triển trong thể chế và thiết
chế chính trị xã hội hiên nay.
Chỉ
tính 40 năm qua, kể từ khi thống nhất đất nước đến nay, đất nước ta vẫn như con
gà mắc tóc, loanh quanh luẫn quẫn, không vùng thoát ra được một tình thế hiểm
nguy. Nguy cơ mất đất, mất biển trời, mất chủ quyền vào tay Trung Hoa bá
quyền Đại Hán, ngày càng hiểm nguy hơn.
Chúng tôi từng cảnh báo
“Giàn khoan 981 là chuyện nhỏ, Gạc Ma mới là chuyện lớn. Quả nhiên họ đã lấp đỗ
đất đá biến Gạc Ma, Bãi Chữ Thập thành quân cảng, thành sân bay quân sự, đặt
gươm kề cổ chúng ta. Phải tính lại đường lối đối ngoại căn cơ hơn, đúng đắn,
hợp lý hơn.
Thời
đại này, nhân loại, tất yếu không loại trừ Việt Nam , có ba hiểm họa toàn cầu.
Một là hiểm họa biến đổi khí hậu, và dịch bệnh nguy hiểm đều do con người đã làm
đảo lộn sinh thái gây ra. Hai là những bùng nổ xã hội do phân hóa giàu
nghèo, do tích tụ hậu quả của những chính sách chính trị, kinh tế, văn hóa phi
nhân tính gây ra. Và ba là hiểm họa của chủ nghĩa khủng bố và khuynh
hướng đế quốc bá đạo tiêu biểu là cái gọi là nhà nước Hồi giáo cực đoan IS, và
Trung Hoa đang hưng phát và quyết tâm đi theo vết xe đỗ của chủ nghĩa đế quốc.
Trung Hoa chẳng mong gì hơn là tình hình cứ nhẹ nhàng, nước chảy bèo trôi như
chúng ta đang làm.
Về
đối nội, điều cay đắng là:
a.
Đường lối sai lầm (chính các kỳ đại hội cũng phải thừa nhận) đã dẫn đến khủng
hoảng chính trị xã hội, kinh tế, văn hóa, giáo dục…lạc hậu kéo dài. Tổ
chức và phương thức hoạt động của đảng tồn tại nhiều nghịch lý. Rõ ràng
mọi thiết chế xã hội đều tồn tại và hoạt động với hai điều: Hiến định và Luật
định. Duy chỉ đảng là đang hoạt động không có luật định để điều
tiết. Xã hội và Nhà nước không thể kiểm soát, giám sát được. Để cho tình
hình Việt Nam
suy thoái và trì trệ suốt trong mấy chục năm qua không thể bỏ ra ngoài trách
nhiệm và năng lực của các đời lãnh đạo của Nhà nước và của Đảng. Đặc biệt
là Nhà nước khi đã được Dân ủy nhiệm, trước hết nó phải làm tròn nghĩa vụ với
Dân, nó phải kiểm soạt và điều tiết được hoạt động của đảng cầm quyền.
Điều cay đắng là chúng ta không làm được sự cần thiết, văn minh như vậy.
b.
Một hệ thống công chức xây dựng từ 1946, ngày càng phình to, hiệu quả
kém, tham nhũng nặng nề, quan liêu, hành dân. Về nguyên tắc và đạo lý,
đội ngũ này phải là lực lượng cầm trịch cho công cuộc kiến tạo một quốc
gia dân tộc phục hưng, phát triển. Họ không đóng được vai trò đó, trở
thành vừa là tội đồ, vừa là nạn nhân.
c.
Một nền kinh tế lạc hậu kéo dài, gia công, lệ thuộc, tiêu phí nhiều thời gian,
đầu tư cao mà hiệu quả thấp. không có một ngành mũi nhọn nào làm được nhiệm vụ
đầu tàu cho sự phát triển.
d.
Khoa học, giáo dục, văn hóa trì trệ, lạc hậu, không tạo ra được chất lượng con
người để có khả năng đổi mới mình và đổi mới xã hội. Có hai ví dụ cay
đắng. Một là, như anh Vũ Ngọc Hoàng, Ủy Viên Trung Ương, Phó Ban Tuyên
Giáo Trung Ương, đã ngậm ngùi nói, người ta sang mình làm ăn thì đều là ông
chủ, nhà quản lý, còn dân mình đi sang họ thì chỉ là ô sin, đầy tớ. Thứ
hai là một ông nông dân giỏi cơ khí, phát minh sáng tạo không có đất dụng võ
trong nước, lại được nước láng giềng sử dụng rất trọng vọng.
Ở
các nước văn minh tiên tiến hiện nay, họ đã có một phương thức sử dụng trí thức
rất hay. Đó là mọi việc, mọi lĩnh vực của Đất nước, thì giới trí thức
phải là người đầu tiên “bàn cho nát nước” (phải đến độ nước mà cũng phải
nát). Rồi nhà chính trị, nhà doanh nghiệp, nhà quản lý mới tiếp thu để
ứng dụng vào chủ trương, chính sách của minh. Chúng ta đang làm ngược
lại. Vì thế trì trệ, lạc hậu kéo dài không đáng có. Trong một khóa
trước, tôi từng thưa với Bộ Chính trị, với ban khoa giáo do GS Nguyễn Đình Tứ
làm trưởng rằng “Chính sách trí thức hàng đầu phải là “Bái trí vi sư”, nghĩa là
phải biết tôn trí thức làm thầy”. Anh Tứ nói với tôi, anh nói đúng nhưng
họ không làm được.
e.
Một nền chính trị dân tộc, thân dân, dân chủ, văn minh tiên tiến, tất yếu phải
phát triển Xã Hội Dân Sự. Xã hội dân sự chính là môi trường, là chỗ tựa nương
của mọi người, mọi thiết chế xã hội. Xã hội dân sự chính là môi sinh nuôi dưởng
mọi cá thể và cộng đồng của xã hội. Chúng ta là đảng tiên phong, nhà nước
văn minh, nhưng không tô bồi vun xới cho xã hôi dân sự hình thành và phát
triển, lại còn mắng nhiếc nó như một số bài đăng trên báo Nhân Dân, báo Quân
Đội Nhân Dân.
Một
trăm năm trước Đông Kinh Nghĩa Thục từng dạy: Chính phủ chẳng qua chỉ là người
dân nắm chính quyền. Mọi người cầm quyền, đều không phải thánh nhân, nếu
không có xã hội dân sự điều tiết, giám sát và giáo dục chắc chắn họ sẽ tự biến
mình thành vua chúa phong kiến, như Anh Nguyễn Văn An từng cay đắng thừa nhận
Bộ Chính Trị là vua tập thể! Trong khi Các Mác khẳng định “Nhà nước chính trị
có cơ sở tự nhiên là gia đình, cơ sở nhân tạo là xã hội dân sự” (cũng thuật ngữ
ấy, chúng ta dịch là xã hội công dân). Còn chúng ta hiện nay thì trên báo
Nhân Dân lại có bài coi xã hội dân sự như thù như địch! Nghe nói BBT còn chỉ
thị không được nói, không được bàn về xã hôi dân sự! Chính Các Mác còn khẳng
định: ”Dân chủ nghĩa là Chính Phủ được đặt dưới sự kiểm soát hoàn toàn của xã
hội.”
Điều
cay đắng là những tư tưởng hợp lý tiến bộ của Mác thì chúng ta không nghiên
cứu, không áp dụng, lại đi áp dụng những tư tưởng lỗi thời và sai lầm mà chính
Mác đã phủ định.
Tôi
xin nêu một ví dụ cay đắng nữa là cuối đời, khi Mác trò chuyện với Bakounin,ông
nói: ”Một khi giai cấp công nhân giành được chình quyền, họ sẽ thực hiện một
chế độ ủy trị, để cho mọt số người tự ứng cử và bầu cử nhằm cai trị họ.
Sau một hồi hưng phấn cách mạng trong một Nhà nước kiểu mới, họ sẽ lập tức tỉnh
ngộ, thấy mình là con rối, là nô lệ, là con mồi cho những tham vọng mới”.
Dự báo này là một quả đắng vì nó là hiện thực trong tất cả các nước theo
Lê nin, theo Mao Trạch Đông, lập kiểu nhà nước xô viết tiến lên chủ nghĩa xã
hội! Ngày nay giai cấp công nhân ở nước ta là giai cấp cùng khổ nghèo hèn, thất
học vô quyền.
Gần
đây, anh em tuyên huấn gay gắt phê phán những người có tư tưởng muốn đa đảng.
Nhưng chính Mác và Ăng nghen trong Tuyên ngôn Cộng sản lại tuyên bố khẳng định
“các đảng cộng sản của các dân tộc phải phấn đấu để đoàn kết và hợp tác với các
đảng dân tộc, dân chủ”. Mác nói phải phấn đấu để đoàn kết và hợp tác,
chúng ta đã phấn đấu ngược lại! Thành ra, chính chúng ta chống lại Mác, chống
lại cương lĩnh gốc của mình!
Tôi
xin chia sẻ với Anh vài suy tư của mình. Rõ ràng khác với những người
khác, Anh sẵn sàng lắng nghe ý kiến cay đắng. Dân mình có câu thuốc đắng
đã tật. Nhiều triết gia hiện đại cũng khẳng định tiếp nhận ý kiến khác mình thì
nhân đôi được kiến thức. Hồ Chí Minh từng nói “ tự do tư tưởng hóa ra là tự do
phục tùng chân lý. Như thế phản đề của cụ là tự do tư tưởng là tự do
không phục tùng ngụy lý! Còn Mác thì nói “tự do báo chí” (tôi thêm tự do tư
tưởng) là sự sám hối của nhân dân trước bản thân mình, mà lời sám hối thật tâm
thì có cơ cứu rỗi.”
Liệu
chúng ta có cứu rỗi được đất nước thoát khỏi tình thế hiểm nguy trước một Trung
Hoa đế quốc, bá quyền nước lớn (mà Tập Cận Bình vùa tuyên bố), liệu có nhanh
chóng thoát ra sự suy đồi, trì trệ, bảo thủ, lạc hậu hiện nay hay không. Mác
từng nói khi lịch sử đã đặt ra vấn nạn của nó, nhất định sẽ có câu trả lời.
Kính
chúc Anh thân tâm an tịnh.
Tác
giả gửi cho viet-studies ngày 15-12-14
———-
Nhận xét